- Điều 1: Giải thích các từ ngữ
- Điều 2: Đối tượng hợp đồng
- Điều 3: Giá trị hợp đồng
- Điều 4: Thanh toán
- Điều 5: Trách nhiệm của Bên A
- Điều 6: Trách nhiệm của Bên B
- Điều 7: Giấy chứng nhận QSHNƠ & QSDĐƠ
- Điều 8: Bất khả kháng
- Điều 9: Miễn trách nhiệm
- Điều 10: Bảo hành
- Điều 11: Thông tin và thông báo
- Điều 12: Các điều khoản khác
- Điều 13: Chấm dứt hợp đồng
- Điều 14: Chuyển giao quyền và nghĩa vụ
- Điều 15: Điều khoản chung
Ngày 30/11/2001, bà NĐ_Hân và bà NĐ_Vy chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố VT của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Thông và bà BĐ_Trần Thị Phụng với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông BĐ_Thông chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông BĐ_Thông đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông BĐ_Thông yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà NĐ_Hân trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông BĐ_Thông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông BĐ_Thông cho biết ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo cầm để tách thửa (ông LQ_Bảo là người nhận chuyển nhượng 2400m2).
Đơn khởi kiện ngày 01/02/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông NĐ_Trần Phong Lan trình bày: Ngày 10/4/2007, ông NĐ_Lan và bà BĐ_Hương ký Hợp đồng mua bán nhà đất (gọi tắt là “HĐ155”) gồm nhà xưởng có diện tích sử dụng 824,64m2, diện tích xây dựng 716,40m2, trên diện tích 720m2 đất thuê thuộc thửa số 873, tờ bản đồ số 6 tại số 155 (số cũ 48/1) quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố HCM (sau đây gọi tắt là “Nhà đất 155”) với giá là 12.121.200.000 đồng. Tại điểm c khoản 1 Điều 1 “HĐ155” có qui định “Bên A đang lập thủ tục hợp thức hoá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 751,2m2, hai bên A, B sẽ thanh quyết toán theo diện tích thực tế được cấp mới”.
Tại đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn NĐ_Tạ Thị Ý Lan: Ngày 10/9/2012, bà có mua một căn nhà của bà BĐ_Tạ Thị Tường Vân tọa lạc tại số 766/18 Quốc lộ N, khu phố 4, phường HBP, quận TĐ, vị trí đất thuộc thửa 512 tờ bản đồ số 40, diện tích 66,2 m2 theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 23368 tại Phòng công chứng số 3, Thành phố HCM. Nhà đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BI 431825 (số vào sổ cấp GCN: CH 02081) ngày 04/6/2012 của UBND quận TĐ cấp cho bà BĐ_Tạ Thị Tường Vân. Sau khi thanh toán đủ 100.000.000 đồng, hai bên đã hoàn tất thủ tục đăng bộ sang tên tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ngày 21/9/2012.
Theo đơn khởi kiện ngày 20/3/2011 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Hoa trình bày: Năm 2000 vợ chồng bà có mua của ông Vũ Văn Hoà là người cùng thôn thửa đất có diện tích 90m2 ở thôn An Ninh, xã YP, huyện YP với giá 32.500.000đ. Nguồn gốc thửa đất này là do ông Hòa mua của ông Trần Văn Lục, còn ông Lục lại mua của HTX dịch vụ Nông nghiệp Yên Sơn cũ (gồm 3 thôn An Ninh, Cầu Giữa, An Lập) từ năm 1994. Năm 2001 vợ chồng bà có điều tiếng với nhau nên ngày 03/02/2001 (âm lịch) chồng bà là ông NĐ_Trần Văn Sinh đã tự ý viết giấy bán thửa đất cho bà BĐ_Nguyễn Thị Vy, đến ngày 07/02/2001 bà mới biết việc ông NĐ_Sinh tự ý bán đất không được sự đồng ý của bà. Ngày 14/02/2001 bà có gọi bà BĐ_Vy vào nhà và bảo là không đồng ý việc ông NĐ_Sinh bán đất, bà BĐ_Vy cũng đã nhất trí không có việc mua bán đất nữa.
Theo Đơn khởi kiện ngày 02/12/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Hoa trình bày: Ngày 21/02/2003, vợ chồng ông BĐ_Hoàng Ngọc Hân, bà BĐ_Trần Thị Hữu thỏa thuận chuyển nhượng 100m2 đất ở khu quy hoạch tái định cư số 02 đường Hoàng Phan Thái với giá 63.500.000 đồng cho ông. Ông đã thanh toán cho ông BĐ_Hân, bà BĐ_Hữu số tiền 62.180.000 đồng, số tiền còn lại khi ông BĐ_Hân, bà BĐ_Hữu làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, ông sẽ thanh toán sau. Khi ông mua đất, vợ chồng ông BĐ_Hân cam đoan lô đất đó của ông BĐ_Hân, do sợ kiện cáo nên ông BĐ_Hân nhờ mẹ là bà Hoàng Thị Hậu đứng tên. Sau này Ban quản lý dự án có quyết định giao lô đất đó thì ông BĐ_Hân chịu trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.