- Trang chủ
- Bài viết
- Dự đoán kết quả tranh chấp
- (Dự thảo án lệ số 2) Quyết định GĐT số 14/2017/KDTM-GĐT ngày 6/6/2017 về xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp...
(Dự thảo án lệ số 2) Quyết định GĐT số 14/2017/KDTM-GĐT ngày 6/6/2017 về xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa
Án lệ số /2017/AL về
xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án
đã hoãn phiên tòa
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày… tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 14/2017/KDTM-GĐT ngày 06-6-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá” tại tỉnh Quảng Trị giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Q (người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn là ông Đặng Công D, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là Hồ Nghĩa A) với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn T (người đại diện theo pháp luật của bị đơn là Võ Văn T, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là Võ Thị T) .
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 1 phần “Nhận định của Toà án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa vì lý do từ phía Tòa án. Phiên tòađược mở lại nhưng có đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ vắng mặt.
- Giải pháp pháp lý:
Tòa án phải xác định đây là trường hợpđương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặttại phiên tòa.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266, Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Khoản 1 Điều 227, Khoản 2 Điều 296, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
Từ khóa của án lệ:
“Triệu tập hợp lệ”; “Đương sự vắng mặt tại phiên tòa”; “Hoãn phiên tòa”; “Triệu tập hợp lệ lần thứ nhất”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2012; Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đề ngày 26-5-2013 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Công ty cổ phần Q trình bày:
Ngày 03-01-2011, Công ty cổ phần Q (sau đây viết tắt là Công ty Q) và Công ty trách nhiệm hữu hạn T (sau đây viết tắt là Công ty T) ký kết Hợp đồng mua bán cây giống cao su số 011/2011/HĐKT; ngày 23-02-2011, hai bên tiếp tục ký Hợp đồng số 021/2011/HĐKT với cùng nội dung. Tổng số lượng cây của hai hợp đồng là 400.000 cây cao su giống bầu 02 tầng lá có giá trị 2.800.000.000 Kíp Lào (mỗi hợp đồng 200.000 cây, trị giá 1.400.000.000 Kíp Lào). Sau khi ký hợp đồng, Công ty Q đã tạm ứng cho Công ty T 930.000.000 Kíp Lào (tương đương với 2.511.000.000 đồng).
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đề nghị mượn 449.455 cây Stump trần và được Công ty Q chấp nhận, số cây này Công ty Q ký hợp đồng mua của Công ty VTP với giá 6.500 đồng/cây. Công ty T đã trả cho Công ty Q 40.600 cây, hiện còn nợ 408.855 cây. Đợt 1, Công ty T chỉ giao được 79.924 cây sau đó không thực hiện hợp đồng. Công ty Q đã nhiều lần mời Công ty T đến để giải quyết, nhưng Công ty T không đến. Ngày 05-10-2011, Võ Văn T mới cử con gái là Võ Thị T đến làm việc. Để hạn chế thiệt hại xảy ra, Công ty Q đã tiến hành kiểm kê toàn bộ số lượng cây hiện có. Tính đến ngày 14-9-2011, tổng cộng có 194.776 cây, nhưng đây chỉ là số lượng kiểm kê chứ không phải số lượng giao nhận. Nếu kết thúc ở thời điểm giao nhận tháng 9-2011 thì số lượng cây giao nhận chỉ đạt 20% trên tổng số tiền là 76% mà Công ty T đã nhận ứng trước của Công ty Q. Do đó, Công ty Q đã thống nhất với Võ Thị T để Công ty Q cử công nhân đến tận dụng và bứng tiếp đợt 2 là 117.833 cây, nâng tổng số cây giao nhận lên 197.757 cây Stump, tương ứng tổng trị giá 3.623.897.000 đồng.
Ngoài ra, Công ty Q còn cho Công ty T mượn các loại vật tư, phân bón với tổng giá trị là 243.913.21l đồng, nhưng đến nay Công ty T vẫn chưa trả lại.
Công ty T đã giao cho Công ty Q 163.376 bầu đất gia công, trị giá 39.414.000 Kíp Lào, tương đương 105.629.500 đồng; vườn gỗ nhân trị giá 20.491.200 Kíp Lào, tương đương 54.916.000 đồng và 18.096.000 đồng; tổng cộng là 178.641.500 đồng. Nay Công ty Q yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc Công ty Tbồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực hiện hai hợp đồng nêu trên với tổng số cây giống chưa giao đủ là 202.243 cây (trị giá thành tiền là 3.706.102.975 đồng). Theo hợp đồng hai bên đã có thỏa thuận nếu vi phạm còn phải chịu phạt gấp 05 lần giá trị số cây chưa giao đủ là 18.530.514.875 đồng;
- Buộc Công ty T phải trả 408.855 cây giống Stump trần đã mượn của Công ty Q, trị giá thành tiền là 2.657.557.500 đồng;
- Buộc Công ty T phải trả các loại vật tư đã mượn của Công ty Q bao gồm: Túi bầu PE (18 x 40) 5.170 kg, phân Kali 500kg, phân DAP 1.000kg, phân lân 2.800kg với tổng trị giá 91.212.392 Kíp Lào, tương đương 243.913.21l đồng.
Tại phiên tòa, Công ty Q chỉ yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8% đối với giá trị số cây chưa giao đủ là 296.488.000 đồng. Tổng cộng Công ty T phải trả cho Công ty Q 3.088.822.500 đồng. Sau khi đối trừ số tiền Công ty Q phải thanh toán cho Công ty T là 1.367.934.000 đồng thì Công ty T còn phải trả cho Công ty Q số tiền là 1.720.888.500 đồng.
Bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn T trình bày:
Xác nhận nội dung hợp đồng như Công ty Q đã trình bày. Công ty T đã thực hiện đúng hợp đồng, nhưng khi đến thời hạn giao cây thì Công ty Q trì hoãn không nhận cây với lý do chưa đủ công nhân, chưa có phương tiện vận chuyển cây đi. Đại diện của Công ty Q cho biết do kế hoạch trồng cây cao su của Công ty tại thời điểm đó so với năm trước đã bị cắt giảm diện tích trồng nên không biết nhận cây xong sẽ trồng ở đâu. Do đó, đến ngày 19-7-2011, Công ty Q mới chịu nhận đợt 1 là 79.924 cây và đến ngày 21-9-2011 mới vận chuyển hết số cây nói trên. Công ty T đã nhiều lần yêu cầu Công ty Q nhận số cây còn lại nhưng Công ty Q không đến nhận. Đến đầu tháng 9-2011, Công ty Q hẹn Công ty T vào ngày 14-9-2011 sẽ cử nhân viên kỹ thuật đến kiểm tra số cây còn lại, nếu sử dụng được thì đếm nhận và xin để nhờ tại vườn ươm của Công ty T, đến khi nào có kế hoạch sẽ trồng. Số cây mà Công ty Q đếm vào ngày 14-9-2011 là 194.766 cây, cộng với số cây nhận đợt 1 là 79.924 cây, tổng cộng Công ty Q đã nhận 274.690 cây. Số cây quá thời hạn mà Công ty Q không nhận dẫn đến bị chết là 125.310 cây. Như vậy, đối với số lượng 400.000 cây của hai hợp đồng thì Công ty T đã cung cấp đủ. Lỗi không nhận cây dẫn đến số cây bị chết là do Công ty Q. Nghĩa vụ thực hiện việc giao cây từ hai hợp đồng đã được Công ty T thực hiện xong. Số tiền còn lại từ hai hợp đồng Công ty T đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng Công ty Q không chịu trả.
Công ty Q đã ứng tiền cho Công ty T theo hai Hợp đồng là 930.000.000 Kíp Lào, tương ứng với 2.511.000.000 đồng. Số phân bón, vật tư mà Công ty Q cho Công ty T mượn là 91.212.392 Kíp Lào. Tổng cộng số tiền Công ty T phải trả cho Công ty Q là 1.021.212.392 Kíp Lào, tương đương 2.757.273.454 đồng.
Tổng giá trị của hai hợp đồng mà Công ty T đã thực hiện xong là 2.800.000.000 Kíp Lào. Công ty Q đã nhận vườn gỗ nhân của Công ty T trị giá 20.491.200 Kíp Lào và 18.096.000 đồng. Túi bầu PE mà Công ty Q đã nhận của Công ty T đợt 1 là 32.865.000 Kíp Lào, đợt 2 là 7.875.000 Kíp Lào, tiền gia công vào đất bầu là 39.406.291 Kíp Lào. Như vậy, tổng số tiền mà Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty T là 2.900.637.491 Kíp Lào tương đương 7.831.721.225 đồng. Sau khi đối trừ nghĩa vụ của các bên, Công ty T phản tố yêu cầu Công ty Q phải thanh toán số tiền 1.879.425.009 Kíp Lào (tương đương 5.074.447.767 đồng) và 18.096.000 đồng. Tổng cộng là 5.092.543.767 đồng.
Tại phiên tòa, Công ty T chỉ yêu cầu thanh toán các khoản sau:
- Giá trị 400.000 cây giống đã thực hiện theo hợp đồng là 1.870.000.000 Kíp Lào (sau khi đã trừ số tiền Công ty Q ứng là 930.000.000 Kíp Lào), tương đương 4.895.288.000 đồng;
- Giá trị vườn gỗ nhân là 20.491.200 Kíp Lào, tương đương 53.642.000 đồng và 18.096.000 đồng;
- Giá trị 163.376 bầu đất là 39.414.000 Kíp Lào, tương đương 103.158.000 đồng. Tổng cộng Công ty T yêu cầu Công ty Q phải thanh toán là 4.967.026.000 đồng;
- Đối với 449.455 cây Công ty T mượn của Công ty Q, đã trả 40.600 cây, còn lại 408.855 cây, Công ty T đồng ý trả bằng hiện vật, không chấp nhận trả bằng tiền.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 54, 55, 56, 300, 301 của Luật Thương mại; khoản 1 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4, khoản 5 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn Công ty T phải thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần Q số tiền 1.720.888.500 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố củabị đơn đối với số tiền 3.602.837.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04-9-2013, Công ty T có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Ngày 01-10-2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị có Quyết định kháng nghị số 2110/QĐKNPT-P12 kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn Công ty T.
- Không chấp nhận Kháng nghị số 2110/QĐKNPT-P12 ngày 01-10-2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty T có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2017/KN-KDTM ngày 24-02-2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm được mở lại vào ngày 26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa, từ đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
[2] Về xác định lỗi của các bên: Theo Điều 3 Hợp đồng mua bán cây giống cao su ngày 03-01-2011, các bên thỏa thuận chậm nhất đến ngày 31-7-2011, Bên B (Công ty T) phải giao đủ số lượng 200.000 cây đạt tiêu chuẩn chất lượng cho Bên A (Công ty Q). Tại Biên bản làm việc ngày 15-7-2011 giữa ông Hồ Duy L là nhân viên Phòng Kỹ thuật nông nghiệp Công ty Q và Võ Thị T đại diện Công ty T về việc tiến hành kiểm tra và đánh giá chất lượng cây giống tại bãi tập kết đến hết ngày 15-7-2011 ghi nhận kết quả: “Stump bầu tầng lá chuyển ra bãi 15.550 bầu; Stump bầu tầng lá chuyển ra bãi đạt từ 2-3 tầng lá trở lên; tầng lá ổn định, chất lượng Stump bầu tầng lá tốt”. Từ ngày 15-7-2011 đến ngày 31-7-2011 (ngày cuối cùng thực hiện việc giao nhận cây theo hợp đồng) hai bên không giao nhận cây và cũng không có văn bản thỏa thuận gia hạn hay kéo dài thời hạn giao nhận cây. Công ty Q cho rằng ngày 15-7-2011 Công ty T mới có 15.550 cây đạt chất lượng thì đến ngày 31-7-2011 không thể có đủ 400.000 cây để giao nên đã vi phạm hợp đồng, còn Công ty T cho rằng cho đến hết ngày 31-7-2011 thì Công ty Q mới chỉ nhận 3.268 cây (dù Công ty T đã có 15.550 cây để giao), nên Công ty Q đã vi phạm hợp đồng.
[3] Tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013, Công ty Q giải thích lý do: đến ngày 31-7-2011 (ngày cuối cùng thực hiện việc giao nhận cây theo hợp đồng), Công ty Q không lập biên bản về việc giao nhận cây và đến tháng 9-2011 lại tiếp tục thực hiện hợp đồng nhận cây vì Công ty Q đã kiểm tra nhưng Công ty T chỉ giao được hơn 79.000 cây. Số cây còn lại không đủ tiêu chuẩn theo hợp đồng để giao nên Công ty Q đã đồng ý cho kéo dài thời gian giao nhận cây để trừ nợ và cho phép Công ty T tiếp tục chăm sóc cây để đủ điều kiện giao cây. Đồng thời, ông H (Trưởng Phòng Kỹ thuật nông nghiệp Công ty Q - là người làm chứng) đã giải thích lý do đến ngày 31-7-2011 Công ty Q chỉ nhận 3.000 cây là do Công ty Q chỉ có 03 xe ô tô (02 xe Kazma và 01 xe Isuzu), thời điểm này ở Lào mưa, đường xá lầy lội, bà T có điện thoại lên Công ty Q bảo lấy cây nhưng do khó khăn nên Công ty Q không lấy kịp.
[4] Với diễn biến sự việc như trên, có thể xác định hai bên đã ký hợp đồng quy định thời gian giao nhận cây từ ngày 30-6-2011 đến ngày 31-7-2011 với số lượng 200.000 cây (tổng phải giao theo 02 hợp đồng là 400.000 cây). Mặc dù đến ngày 15-7-2011, Công ty T đã có 15.500 cây để giao, nhưng Công ty Q chỉ nhận 3.200 cây do trời mưa, đường xá lầy lội và chỉ có 03 xe vận chuyển. Tuy không thể hiện bằng văn bản, nhưng cho đến ngày 05-10-2011 thì Công ty Q đã chấp nhận kéo dài thời gian giao nhận cây và tiếp tục cam kết sẽ nhận hết cây trong vòng 12 ngày. Tính đến ngày 21-9-2011, Công ty Q đã nhận 79.924 cây và đến ngày 24-10-2011 hai bên vẫn tiến hành giao nhận cây (theo Biên bản giao nhận cây giống ngày 24-10-2011, trong đó xác định từ ngày 06-10-2011 đến ngày 24-10-2011 đã tiến hành giao nhận 83.867 cây giống PB260 chủng loại bầu 2 tầng lá, chất lượng cây giống tốt). Do đó, có căn cứ xác định cả hai bên Công ty T và Công ty Q đều có lỗi trong việc giao cây và nhận cây. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định lỗi hoàn toàn của Công ty T và áp dụng mức phạt cao nhất theo Điều 301 Luật Thương mại (8%) đối với Công ty T là không phù hợp; cần phải xác định lại mức độ lỗi của các bên để quyết định mức phạt cho đúng.
[5]Về số cây mượn: Hồ sơ vụ án thể hiện 2 bên không có văn bản về việc mượn cây, nhưng cả 2 bên đều xác nhận Công ty Q cho Công ty T mượn 449.455 cây, Công ty T đã trả 40.600 cây, còn nợ 408.855 cây. Công ty T cho rằng đã có đủ cây để trả và đồng ý trả bằng cây, không chấp nhận quy đổi trả bằng tiền. Còn Công ty Q cho rằng do Công ty T không có khả năng trả bằng cây nên yêu cầu trả bằng tiền. Căn cứ Điều 471 và Điều 474 Bộ luật dân sự 2005 về Hợp đồng vay tài sản; Điều 514 Bộ luật dân sự 2005 về Hợp đồng mượn tài sản đều quy định về nghĩa vụ trả nợ là bên vay (mượn) phải hoàn trả cho bên cho vay (cho mượn) tài sản cùng loại, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét việc Công ty T có đủ khả năng trả cây cùng loại hay không là không phù hợp quy định của pháp luật. Nếu Công ty T không đủ khả năng để trả bằng cây cùng loại thì mới buộc trả bằng tiền.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2017/KN-KDTM ngày 24-02-2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Q với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn T.
2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[1] Về tố tụng: Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm được mở lại vào ngày 26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa, từ đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.”
(nguồn: anle.toaan.gov.vn)Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Bước tiến trong cải cách tư pháp khi tổ chức lại Tòa án nhân dân theo Nghị quyết 18-NQ/TW
Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đề ra nhiệm vụ quan trọng trong việc sắp xếp, tinh gọn hệ thống Tòa án nhân dân nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp.
Mục tiêu của việc tổ chức lại
Việc cải cách này có các mục tiêu sau: (1) Tinh giản bộ máy, giảm đầu mối trung gian, sáp nhập các đơn vị nhỏ lẻ để tập trung nguồn lực. (2) Định hướng tổ chức Tòa án theo cấp xét xử thay vì theo đơn vị hành chính địa phương. (3) Nâng cao tính độc lập, khách quan trong xét xử, đảm bảo tính thống nhất và chuyên môn hóa trong hệ thống Tòa án. (4) Ứng dụng công nghệ hiện đại, xây dựng Tòa án điện tử, tối ưu hóa quy trình giải quyết án.
Phương án tổ chức lại Tòa án nhân dân
Tổ chức Tòa án sơ thẩm theo khu vực
Một trong những thay đổi quan trọng nhất là việc tổ chức lại các Tòa án nhân dân cấp huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực. Thay vì mỗi quận/huyện có một Tòa án nhân dân riêng biệt, các đơn vị này sẽ được sáp nhập lại dựa trên các tiêu chí:
- Khối lượng công việc: Tòa án sơ thẩm khu vực phải đảm bảo xử lý từ 800 - 3.000 vụ/năm tùy theo khu vực đô thị hay nông thôn.
- Khoảng cách địa lý hợp lý: Đảm bảo trụ sở Tòa án khu vực không cách quá 50km từ điểm xa nhất trong địa bàn quản lý.
- Đặc thù kinh tế - xã hội: Ưu tiên sắp xếp theo cụm khu vực có mật độ dân số, tình hình kinh tế tương đồng để tránh sự mất cân bằng về số lượng vụ án.
- Hải đảo: Không tổ chức Tòa án sơ thẩm tại mỗi huyện đảo mà sẽ bố trí thẩm phán đến làm việc định kỳ tại các khu vực này.
Cơ cấu tổ chức các cấp Tòa án nhân dân
Sau khi tổ chức lại, hệ thống Tòa án nhân dân sẽ có 4 cấp chính:
- Tòa án nhân dân tối cao: Giữ vai trò lãnh đạo toàn ngành, định hướng chính sách tư pháp.
- Tòa án nhân dân cấp cao: Có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án từ Tòa án cấp tỉnh.
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Tiếp tục xét xử sơ thẩm một số vụ án đặc biệt và phúc thẩm các bản án từ Tòa án sơ thẩm khu vực.
- Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực: Sát nhập từ các Tòa án cấp huyện, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm toàn diện đối với các loại vụ án trên địa bàn liên huyện.
Ngoài ra, hệ thống Tòa án chuyên trách cấp huyện sẽ được giảm mạnh hoặc sáp nhập để tinh gọn đầu mối quản lý.
Lộ trình triển khai
Quá trình triển khai phương án tổ chức lại Tòa án nhân dân sẽ được thực hiện theo các giai đoạn:
- 2024 - 2025: Hoàn thiện cơ sở pháp lý, lấy ý kiến các địa phương, sắp xếp bộ máy hành chính.
- 2025 - 2026: Chính thức triển khai mô hình Tòa án sơ thẩm khu vực tại một số địa phương thí điểm.
- 2027 - 2030: Tổng kết, đánh giá kết quả và mở rộng mô hình trên phạm vi toàn quốc.
Việc tổ chức lại hệ thống Tòa án nhân dân theo Nghị quyết 18-NQ/TW là bước tiến quan trọng trong cải cách tư pháp, góp phần xây dựng một hệ thống tòa án hiện đại, chuyên nghiệp, đảm bảo công lý và quyền lợi hợp pháp cho nhân dân. Dù còn một số thách thức trong quá trình triển khai, nhưng với quyết tâm chính trị cao và lộ trình thực hiện hợp lý, hệ thống Tòa án nhân dân mới sẽ vận hành hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mới nhất
Xem nhiều
Dự thảo Án lệ số 22/2024 về việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý của bên mua bảo hiểm
DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 22/2024
ÁN LỆ SỐ …./2024
Về việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý
của bên mua bảo hiểm
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2024 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày… tháng…. năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 37/2023/DS-GĐT ngày 24/8/2023 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là cụ Đặng Ngọc M, bà Trần Thị T, chị Đặng Ngọc Anh T1 và bị đơn là Tổng Công ty V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 05 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 1, 2, 6, 7, 8 và 14 phần “Nhận định của Tòa án”
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Trong đơn yêu cầu bảo hiểm, bên mua bảo hiểm không cung cấp thông tin về tình trạng bệnh hiểm nghèo của mình, mặc dù biết rõ mình có bệnh này và đã đi chữa bệnh nhiều lần. Trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm chết do bệnh hiểm nghèo nêu trên.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý khi ký Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và doanh nghiệp bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm bảo hiểm.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điểm b khoản 2 Điều 18 và khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (tương ứng với điểm a khoản 2 Điều 21 và khoản 2 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022).
Từ khóa của án lệ:
“Vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin”; “Tình trạng bệnh lý”; “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, “Trách nhiệm bảo hiểm”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 08/10/2016 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là cụ Đặng Thị M, bà Trần Thị T và chị Đặng Ngọc Anh T1 trình bày:
Ngày 17/6/2014 và ngày 24/7/2014, ông Đặng Lâm Quốc B (là con của cụ Đặng Ngọc M, chồng của bà Trần Thị T, cha của chị Đặng Ngọc Anh T1) có lập 03 giấy yêu cầu bảo hiểm để tham gia các gói bảo hiểm của Tổng Công ty V với người được bảo hiểm là ông B, cụ thể:
- Giấy yêu cầu bảo hiểm An Phát Trọn Đời ngày 17/6/2014, giá trị bảo hiểm là 1.500.000.000 đồng, thời hạn bảo hiểm trọn đời. Người được bảo hiểm: Ông Đặng Lâm Quốc B, người thụ hưởng: Bà Trần Thị T. Ông B đã đóng phí bảo hiểm 01 năm là 30.843.000 đồng (Hợp đồng bảo hiểm chính: 30.000.000 đồng, sản phẩm bổ trợ BV-NR17 - quyền lợi miễn đóng phí bảo hiểm các bệnh lý nghiêm trọng: 843.000 đồng). Ngày 21/6/2014, đại diện Tổng Công ty V cho ông B kiểm tra sức khỏe tại Bệnh viện đa khoa tư nhân Bình Dương. Ngày 25/6/2014, Tổng Công ty V có thông báo chấp nhận bảo hiểm có điều kiện, đề nghị ông B nộp thêm 590.100 đồng phí bảo hiểm do tình trạng sức khỏe. Ngày 27/6/2014, Tổng Công ty V ra thông báo chấp nhận bảo hiểm đối với ông B.
- Giấy yêu cầu bảo hiểm An Phát Hưng Gia ngày 24/7/2014, giá trị bảo hiểm là 1.500.000.000 đồng, thời hạn bảo hiểm 20 năm. Người được bảo hiểm: Ông Đặng Lâm Quốc B, người thụ hưởng: Cụ Đặng Ngọc M. Ông B đã đóng phí bảo hiểm 01 năm là 53.480.000 đồng (Hợp đồng bảo hiểm chính: 50.000.000 đồng; sản phẩm bổ trợ BV-NR15- Bảo hiểm các bệnh lý nghiêm trọng: 420.000 đồng, sản phẩm bổ trợ BV-NR16 - Bảo hiểm phẫu thuật và điều trị ngoại khoa: 1.215.000 đồng, sản phẩm bổ trợ BV-NR17- Bảo hiểm các bệnh lý nghiêm trọng: 1.845.000 đồng. Ngày 29/7/2014, Tổng Công ty V có thông báo chấp nhận bảo hiểm có điều kiện và đề nghị ông B nộp thêm 2.436.000 đồng (tăng phí do tình trạng sức khỏe). Ngày 06/8/2014, Tổng Công ty V thông báo chấp nhận bảo hiểm cho ông B.
- Giấy yêu cầu bảo hiểm nhân thọ An Phát Trọn Đời ngày 24/7/2014, giá tri bảo hiểm là 2.500.000.000 đồng, thời hạn bảo hiểm trọn đời. Người được bảo hiểm: Ông Đặng Lâm Quốc B, người thụ hưởng: Chị Đặng Ngọc Anh T1. Ông B đã đóng phí bảo hiểm 01 năm là 50.983.800 đồng (Hợp đồng bảo hiểm chính: 48.000.000 đồng; sản phẩm bổ trợ BV-NR15- Bảo hiểm các bệnh lý nghiêm trọng: 420.000 đồng, sản phẩm bổ trợ BV-NR16- Bảo hiểm phẫu thuật và điều trị ngoại khoa: 1.215.000 đồng, sản phẩm bổ trợ BV-NR17- Bảo hiểm các bệnh lý nghiêm trọng: 1.348.800 đồng. Ngày 29/7/2014, Tổng Công ty V có thông báo chấp nhận bảo hiểm có điều kiện (tăng phí do tình trạng sức khỏe) và đề nghị ông B nộp thêm 2.088.660 đồng. Ngày 06/8/2014, Tổng Công ty V thông báo chấp nhận bảo hiểm và giao toàn bộ hợp đồng cho ông B.
Ngày 12/3/2015, ông B chết, nhưng Tổng Công ty V không đồng ý trả tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Tổng Công ty V trả cho phía nguyên đơn số tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng, cụ thể: cụ M, bà T mỗi người 1.500.000.000 đồng, chị T1 là 2.500.000.000 đồng.
Bị đơn là Tổng Công ty V trình bày: Tổng Công ty V thống nhất lời trình bày của phía nguyên đơn về các Hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa Tổng Công ty V với ông Đặng Lâm Quốc B. Tuy nhiên, trước khi tham gia bảo hiểm, ông B đã bị bệnh Carcinom kém biệt hóa di căn và Carcinom thần kinh nội tiết, nhưng khai báo gian dối, vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, thuộc trường hợp không được bồi thường bảo hiểm. Do đó, Tổng Công ty V không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 134/2017/DS-ST ngàỵ 25/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Đặng Ngọc M, bà Trần Thị T, chị Đặng Ngọc Anh T1 đối với bị đơn Tổng Công ty V về việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.
Buộc Tổng Công ty V trả tiền bảo hiểm cho cụ Đặng Ngọc M là 1.500.000.000 đồng, cho bà Trần Thị T là 1.500.000.000 đồng, cho chị Đặng Ngọc Anh T1 là 2.500.000.000 đồng.
Ngày 09/10/2017, Tổng Công ty V có đơn kháng cáo.
Tại Quyết định kháng nghị số 30/QĐKNPT-VKS-DS ngày 09/10/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2018/DS-PT ngày 06/3/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 30/QĐKNPT- VKS-DS ngày 09/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty V. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm.
Không nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Đặng Ngọc M, bà Trần Thị T, chị Đặng Ngọc Anh T1 đối với bị đơn Tổng Công ty V về việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.
Ngày 09/8/2018, cụ Đặng Ngọc M, bà Trần Thị T, chị Đặng Ngọc Anh T1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 201/2021/KN-DS ngày 07/12/2021 Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 134/2017/DS-ST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương giải quyết sơ thẩm lại đúng quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 99/2022/DS-GĐT ngày 06/4/2022 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 201/2021/KN-DS ngày 07/12/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2018/DS-PT ngày 06/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 134/2017/DS- ST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 17/6/2022, Tổng Công ty V có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 99/2022/DS-GĐT ngày 06/4/2022 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VKS-DS ngày 25/4/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Quyết định giám đốc thẩm nêu trên của ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định giám đốc thẩm số 99/2022/DS-GĐT ngày 06/4/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2018/DS-PT ngày 06/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
[1] Ngày 17/6/2014 và ngày 24/7/2014, ông Đặng Lâm Quốc B đã tham giạ các gói bảo hiểm An Phát Trọn Đời và An Phát Hưng Gia, người được bảo hiểm là ông B, giá trị bảo hiểm cho từng yêu cầu bảo hiểm là 1.500.000.000 đồng (mức phí 30 triệu đồng/năm trong 15 năm, người thụ hưởng là bà Trần Thị T), 2.500.000.000 đồng (mức phí 48 triệu đồng/năm trong 15 năm, người thụ hưởng là chị Đặng Ngọc Anh T) và 1.500.000.000 đồng (mức phí 50 triệu đồng/năm trong 20 năm, người thụ hưởng là cụ Đặng Ngọc M).
[2] Theo các Giấy yêu cầu bảo hiểm ngày 17/6/2014, ngày 24/7/2014 thể hiện tại các mục hỏi và trả lời về tinh trạng sức khỏe cá nhân, ông B đều tích “x” vào toàn bộ ô trả lời “không”, trong đó có câu hỏi số 17/A/II “Khối u (lành tính hoặc ác tính), ung thư...”, câu hỏi số 27/C/II “Trong một năm vừa qua bạn có đi khám bệnh và/hoặc làm xét nghiệm gì không? Có phải nghỉ học hoặc nghỉ làm nhiều ngày để đi khám chữa bệnh không?” và câu hỏi số 30/C/II Bạn có đang mắc hoặc đang điều trị bệnh lý nào không? Sau khi xác lập giấy yêu cầu bảo hiểm, ngày 21/6/2014, Tổng Công ty V đã cho ông B kiểm tra sức khỏe tại Bệnh Viện Đa khoa tư nhân Bình Dương. Theo Kết quả Kết luận kiểm tra sức khỏe tại Bệnh viện đa khoa Bình Dương ngày 21/6/2014, ông B là người cung cấp các thông tin kiểm tra sức khỏe, trong đó có nội dung câu hỏi: (Đã từng phải nằm viện điều trị chưa? Khi nào? Lý do? Đợt nằm viện dài nhất là bao lâu? Điều trị nội khoa hay ngoại khoa? ông B tích “x” vào ô trả lời “Không” và kết quả này ông B đã cam kết thông tin đã cung cấp cho cơ sở y tế của Tổng Công ty V là hoàn toàn đầy đủ, đúng sự thật và các thông tin này được coi là thông tin bổ sung cho giấy yêu cầu bảo hiểm liên quan và đã ký tên.
[3] Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện ông Đặng Lâm Quốc B đã từng làm xét nghiệm, khám sức khỏe và điều trị bệnh tại nhiều bệnh viện. Cụ thể:
[4] Tại Tóm tắt bệnh án số 670/KHTH-TTBA ngày 12/7/2016 của Bệnh Viện Ưng Bướu Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện: Ông B nhập viện ngày 13/5/2014 với bệnh sử: Khỏi bệnh 5 tháng, bệnh nhân đau bụng, khám tại Bệnh viện nhân dân 115 chẩn đoán hạch ổ bụng; giải phẫu bệnh: Carcinom kém biệt hóa di căn hạch; bệnh nhân qua Singapore điều trị 6 chu kỳ; chẩn đoán: Di căn hạch toàn thân chưa rõ nguyên phát.
[5] Tại Công văn số 1135/BVUB-KHTH ngày 30/5/2017 của Bệnh viện ung bướu T, bệnh viện đã cung cấp toàn bộ hồ sơ bệnh án của ông B cũng thể hiện ông B từng khám, xét nghiệm tại các bệnh viện: Bệnh viện chuyên khoa ngoại thần kinh quốc tế tại kết quả chụp cộng hưởng từ MRI bụng ngày 11/9/2013 kết luận: Khả năng hạch ác tính di căn. Phiếu xét nghiệm giải phẫu bệnh của Bệnh viện nhân dân 115 ngày 27/9/2013 kết luận: Ông B bị Carcinoma kém biệt hóa, di căn hạch; Bệnh viện Chợ Rẫy tại kết quả ghi hình Pet - CT ngày 02/6/2014 kết luận: Tình trạng K tế bào thần kỉnh nội tiết đã điều trị, hình ảnh Pet - CT hiện tại thấy: Các tổn thương ác tính tăng hoạt động chuyển hóa ở các vị trí đầu và thân tụy, gan hạ phân thùy VII, hạch quanh tụy, dọc động mạch chủ bụng, quanh bó mạch thận, bó mạch chậu chung trong ngoài hai bên và chân hoành hai bên, hạch thượng đòn (T); so sánh với hình ảnh Pet - CT ngày 25/11/2013 chụp tại Singapore thay các hạch tụy lớn hơn và tăng hoạt động chuyển hóa hơn, tổn thương gan tăng hoạt động chuyển hóa hơn, xuất hiện hạch mới ở bó mạch chậu trong ngoài hai bên, những tổn thương khác không thay đổi đáng kể.
[6] Ngày 11/3/2015, ông B vào Bệnh viện đa khoa V: với tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp, viêm phổi; K tụy di căn gan, thận giai đoạn cuối, chuyển cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương. Cùng ngày, ông B cấp cứu và nhập viện tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B với tình trạng trụy tim mạch, suy hô hấp, viêm phổi, K tụy di căn gan thận giai đoạn cuối. Ngày 12/3/2015, ông B chết. Nguyên nhân chết được xác định trong Giấy chứng tử của Ủy ban nhân dân xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương: Chết do bệnh.
[7] Tại Công văn số 2624/BVUB-KHTH ngày 28/12/2016, Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh xác định ông B bị ung thư biểu mô di căn nhiều nơi không rõ nguyên nhân phát, dạng ung thư biểu mô có độc ác cao, tình trạng của bệnh nhân khi phát hiện thuộc giai đoạn cuối.
[8] Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định trước khi xác lập Giấy yêu cầu bảo hiểm với Tổng Công ty V vào các ngày 17/6/2014 và 24/7/2014, ông B đã biết rõ về tình trạng bệnh tật của mình, đã từng tham gia chữa trị tại nhiêu bệnh viện khác nhau ở cả trong nước và nước ngoài với tình trạng bệnh lý ung thư, nhưng không khai báo trung thực tình trạng sức khỏe của mình; tại thời điểm xác lập yêu cầu bảo hiểm, ký hợp đồng bảo hiểm, ông B đang điều trị tại bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh (từ ngày 13/5/2014 đến 19/8/2014 với tình trạng bệnh là K hạch thần kinh nội tiết). Việc Tổng Công ty V yêu cầu phí tăng thêm dựa trên kết quả kiểm tra sức khỏe của ông B là đối với những bệnh lý Gan nhiễm mỡ, viêm Gan siêu vi B, rối loại chuyển hóa lipid máu, không liên quan đến bệnh lý ung thư của ông B.
[9] Theo quy định tại Điều 4, Điều khoản An Phát Trọn Đời; Điều 4 Điều khoản An Phát Hưng Gia thì “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và trung thực tất cả những thông tin có liên quan đến người được bảo hiểm và hợp đồng theo yêu cầu của Tổng Công ty V đồng thời hoàn toàn chịu trách nhiệm về nhũng thông tin đã cung cấp. Việc Tổng Công ty V tiến hành kiểm tra sức khỏe của người được bảo hiểm (nếu có) không thay thế nghĩa vụ này”.
[10] “Cố ý vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin được hiểu là việc bên mua bảo hiểm cung cấp, kê khai không chính xác, không trung thực hoặc che giấu các thông tin quan trọng mà nếu biết được các thông tin này Tổng Công ty V đã không chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm nhưng phải kèm theo các điều kiện bổ sung theo quy định của Tổng Công ty V”.
[11] Theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, thì bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của Doanh nghiệp bảo hiểm”; khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, có cơ sở xác định bên mua bảo hiểm ông Đặng Lâm Quốc B đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 4, Điều khoản An Phát Trọn Đời; Điều 4, Điều khoản An Phát Hưng Gia và Điều 18, Điều 19 Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2000. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không có cơ sở cho rằng ông B đã khai báo không trung thực khi tham gia các hợp đồng bảo hiểm, không có cơ sở để kết luận ông B vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định tại Khoản 4.1 Điều 4 Điều khoản An Phát Trọn Đời và An Phát Hưng Gia là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông B vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là có cơ sở.
[12] Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì: “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này”.
[13] Điều 4.2 Điều khoản An Phát Hưng Gia, Điều 4.2 Điều khoản An Phát Trọn Đời quy định: trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, Hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực và Tổng Công ty V không phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm định kỳ và phí bảo hiểm của sản phẩm bổ trợ (nếu có) đã đóng mà chỉ hoàn lại giá trị tàỉ khoản hợp đồng tương ứng với phí bảo hiểm đóng thêm (nếu có) trừ đi các quyền lợi bảo hiểm đã thanh toán, các khoản rút một phần giá trị tài khoản hợp đồng, khoản nợ (nếu có) và không phảỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm về những rủỉ ro đã phát sinh đối với người được bảo hiểm.
[14] Như vậy, ông B đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về sức khỏe/bản thân, Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, Tổng Công ty V không phải chịu trách nhiệm bảo hiểm về những rủi ro đã phát sinh đối với người được bảo hiểm. Trường hợp này, Tổng Công ty V chỉ phải hoàn lại giá trị tài khoản hợp đồng tương ứng với phí bảo hiểm đóng thêm (nếu có) trừ đi các quyền lợi bảo hiểm đã thanh toán, các khoản rút một phần giá trị tài khoản hợp đồng, khoản nợ (nếu có). Tuy nhiên, theo Bảng minh họa về phân bổ phí và quyền lợi bảo hiểm của hợp đồng chính thì giá trị hoàn lại năm đầu tiên người mua bảo hiểm được nhận khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo quy định của hợp đồng là bằng không. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Tổng Công ty V đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm nên buộc Tổng Công ty V phải có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là cụ M, bà T, chị T1 là không có cơ sở. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Tổng Công ty V chịu trách nhiệm bảo hiểm là có cơ sở. Quyết định giám đốc thẩm cho rằng Tổng Công ty V phải có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm của cho phía nguyên đơn, nhưng phải xem xét lỗi của người yêu cầu bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin về sức khỏe để xác đinh mức chi trả bảo hiểm tương ứng là không đúng với quy định tại Điều 4.4.2 cùa Điều khoản An Phát Trọn Đời và Điều 4.4.2 cùa Điều khoản An Phát Hưng Gia.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 337, khoản 2 Điều 343, Điều 344 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐ-VKS- DS ngày 25/4/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số 99/2022/DS-GĐT ngày 06/4/2022 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là cụ Đặng Ngọc M, bà Trần Thị T và chị Đặng Ngọc Anh T1 với bị đơn là Tổng Công ty Bảo V và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2018/DS-PT ngày 06/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG ÁN LỆ:
“[1] Ngày 17/6/2014 và ngày 24/7/2014, ông Đặng Lâm Quốc B đã tham giạ các gói bảo hiểm An Phát Trọn Đời và An Phát Hưng Gia, người được bảo hiểm là ông B, giá trị bảo hiểm cho từng yêu cầu bảo hiểm là 1.500.000.000 đồng (mức phí 30 triệu đồng/năm trong 15 năm, người thụ hưởng là bà Trần Thị T), 2.500.000.000 đồng (mức phí 48 triệu đồng/năm trong 15 năm, người thụ hưởng là chị Đặng Ngọc Anh T) và 1.500.000.000 đồng (mức phí 50 triệu đồng/năm trong 20 năm, người thụ hưởng là cụ Đặng Ngọc M).
[2] Theo các Giấy yêu cầu bảo hiểm ngày 17/6/2014, ngày 24/7/2014 thể hiện tại các mục hỏi và trả lời về tinh trạng sức khỏe cá nhân, ông B đều tích “x” vào toàn bộ ô trả lời “không”, trong đó có câu hỏi số 17/A/II “Khối u (lành tính hoặc ác tính), ung thư...”, câu hỏi số 27/C/II “Trong một năm vừa qua bạn có đi khám bệnh và/hoặc làm xét nghiệm gì không? Có phải nghỉ học hoặc nghỉ làm nhiều ngày để đi khám chữa bệnh không?” và câu hỏi số 30/C/II Bạn có đang mắc hoặc đang điều trị bệnh lý nào không? Sau khi xác lập giấy yêu cầu bảo hiểm, ngày 21/6/2014, Tổng Công ty V đã cho ông B kiểm tra sức khỏe tại Bệnh Viện Đa khoa tư nhân Bình Dương. Theo Kết quả Kết luận kiểm tra sức khỏe tại Bệnh viện đa khoa Bình Dương ngày 21/6/2014, ông B là người cung cấp các thông tin kiểm tra sức khỏe, trong đó có nội dung câu hỏi: (Đã từng phải nằm viện điều trị chưa? Khi nào? Lý do? Đợt nằm viện dài nhất là bao lâu? Điều trị nội khoa hay ngoại khoa? ông B tích “x” vào ô trả lời “Không” và kết quả này ông B đã cam kết thông tin đã cung cấp cho cơ sở y tế của Tổng Công ty V là hoàn toàn đầy đủ, đúng sự thật và các thông tin này được coi là thông tin bổ sung cho giấy yêu cầu bảo hiểm liên quan và đã ký tên.
....
[6] Ngày 11/3/2015, ông B vào Bệnh viện đa khoa V: với tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp, viêm phổi; K tụy di căn gan, thận giai đoạn cuối, chuyển cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương. Cùng ngày, ông B cấp cứu và nhập viện tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B với tình trạng trụy tim mạch, suy hô hấp, viêm phổi, K tụy di căn gan thận giai đoạn cuối. Ngày 12/3/2015, ông B chết. Nguyên nhân chết được xác định trong Giấy chứng tử của Ủy ban nhân dân xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương: Chết do bệnh.
[7] Tại Công văn số 2624/BVUB-KHTH ngày 28/12/2016, Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh xác định ông B bị ung thư biểu mô di căn nhiều nơi không rõ nguyên nhân phát, dạng ung thư biểu mô có độc ác cao, tình trạng của bệnh nhân khi phát hiện thuộc giai đoạn cuối.
[8] Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định trước khi xác lập Giấy yêu cầu bảo hiểm với Tổng Công ty V vào các ngày 17/6/2014 và 24/7/2014, ông B đã biết rõ về tình trạng bệnh tật của mình, đã từng tham gia chữa trị tại nhiêu bệnh viện khác nhau ở cả trong nước và nước ngoài với tình trạng bệnh lý ung thư, nhưng không khai báo trung thực tình trạng sức khỏe của mình; tại thời điểm xác lập yêu cầu bảo hiểm, ký hợp đồng bảo hiểm, ông B đang điều trị tại bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh (từ ngày 13/5/2014 đến 19/8/2014 với tình trạng bệnh là K hạch thần kinh nội tiết). Việc Tổng Công ty V yêu cầu phí tăng thêm dựa trên kết quả kiểm tra sức khỏe của ông B là đối với những bệnh lý Gan nhiễm mỡ, viêm Gan siêu vi B, rối loại chuyển hóa lipid máu, không liên quan đến bệnh lý ung thư của ông B.
.....
[14] Như vậy, ông B đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về sức khỏe/bản thân, Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, Tổng Công ty V không phải chịu trách nhiệm bảo hiểm về những rủi ro đã phát sinh đối với người được bảo hiểm. Trường hợp này, Tổng Công ty V chỉ phải hoàn lại giá trị tài khoản hợp đồng tương ứng với phí bảo hiểm đóng thêm (nếu có) trừ đi các quyền lợi bảo hiểm đã thanh toán, các khoản rút một phần giá trị tài khoản hợp đồng, khoản nợ (nếu có). Tuy nhiên, theo Bảng minh họa về phân bổ phí và quyền lợi bảo hiểm của hợp đồng chính thì giá trị hoàn lại năm đầu tiên người mua bảo hiểm được nhận khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo quy định của hợp đồng là bằng không. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Tổng Công ty V đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm nên buộc Tổng Công ty V phải có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là cụ M, bà T, chị T1 là không có cơ sở. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Tổng Công ty V chịu trách nhiệm bảo hiểm là có cơ sở. Quyết định giám đốc thẩm cho rằng Tổng Công ty V phải có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm của cho phía nguyên đơn, nhưng phải xem xét lỗi của người yêu cầu bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin về sức khỏe để xác đinh mức chi trả bảo hiểm tương ứng là không đúng với quy định tại Điều 4.4.2 cùa Điều khoản An Phát Trọn Đời và Điều 4.4.2 cùa Điều khoản An Phát Hưng Gia.”
-----------------------------------------------------
Lý do đề xuất án lệ:
Hiện nay tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ chủ yếu là tranh chấp liên quan đến nguyên tắc trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm và những vi phạm nguyên tắc này chủ yếu xuất phát từ phía người mua bảo hiểm. Trong quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm đã không cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến bệnh có sẵn. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến vấn đề này thì đường lối giải quyết của các Tòa án hiện nay là rất khác nhau.
Trong vụ án này, bên mua bảo hiểm mặc dù đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo và đã điều trị bệnh này nhưng khi giao kết hợp đồng lại không cung cấp thông tin này; doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa người mua bảo hiểm đi khám sức khỏe nhưng không phát hiện ra bệnh lý trên; doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm và thu phí bảo hiểm dựa trên thông tin người mua bảo hiểm cung cấp, thông tin này không bảo gồm bệnh hiểm nghèo của người mua bảo hiểm do người mua không khai báo. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm nên buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở; Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở; Tòa án cấp giám đốc thẩm cho rằng doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm của cho phía nguyên đơn, nhưng phải xem xét lỗi của người yêu cầu bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin về sức khỏe để xác đinh mức chi trả bảo hiểm tương ứng là không đúng.
Như vậy, trong cùng một vụ án mà đường lối giải quyết của 03 cấp Tòa án là khác nhau về hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Quyết định giám đốc thẩm của HĐTPTANDTC đã xác định bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý khi ký Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và doanh nghiệp bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm bảo hiểm, từ đó hủy Quyết định giám đốc thẩm của UBTPTANDTC tại TP HCM, giữ nguyên bản án phúc thẩm là đúng. Do đó, việc ban hành án lệ đối với tình huống pháp lý trên để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết các tình huống pháp lý tương tự là cần thiết.
Nguồn: Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Việt Nam áp thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép cán nóng (HRC) nhập khẩu từ Trung Quốc - Vụ việc do Hòa Phát và Formasa khởi xướng điều tra
Ngày 21/2/2025, Bộ Công thương ban hành Quyết định số 460 ⁄QĐ-BCT về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với một số sản phẩm thép cán nóng có xuất xứ từ Ấn Độ và Trung Quốc. Trước đó, kết quả điều tra cho thấy, mặc dù có tồn tại hành vi bán phá giá nhưng do tỷ lệ nhập khẩu hàng hóa bị điều tra từ Ấn Độ ở mức không đáng kể (dưới 3%), vì vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật Quản lý ngoại thương, hàng hóa bị điều tra từ Ấn Độ được loại khỏi phạm vi áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời.
Hàng hóa bị áp thuế
Một số sản phẩm thép cán nóng được phân loại theo các mã HS: 7208.25.00, 7208.26.00, 7208.27.19, 7208.27.99, 7208.36.00, 7208.37.00, 7208.38.00, 7208.39.20, 7208.39.40, 7208.39.90, 7208.51.00, 7208.52.00, 7208.53.00, 7208.54.90, 7208.90.90, 7211.14.15, 7211.14.16, 7211.14.19, 7211.19.13, 7211.19.19, 7211.90.12, 7211.90.19, 7225.30.90, 7225.40.90, 7225.99.90, 7226.91.10, 7226.91.90.
Mức thuế áp dụng
Mức thuế CBPG lên đến 28,83% (tùy vào công ty) đối với hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc.
Đối với hàng hóa từ Ấn Độ, không áp dụng do không thỏa mãn điều kiện
Hiệu lực
Bắt đầu sau 15 ngày kể từ ngày ban hành (tức từ 07/03/2025).
Thời hạn áp dụng
120 ngày kể từ ngày có hiệu lực, trừ khi được gia hạn hoặc điều chỉnh theo quy định pháp luật.
Nguồn: Quyết định số 460/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công thương ngày 21/02/2025 về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với một số sản phẩm thép cán nóng
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tư duy ngược: Nghĩ khác đi để tìm lối ra
Có bao giờ bạn thấy bế tắc khi cố gắng giải quyết một vấn đề mà nghĩ mãi không ra? Chẳng hạn, bạn muốn tiết kiệm tiền nhưng cứ mãi loay hoay với câu hỏi “Làm sao để kiếm thêm?”. Thế rồi, bạn thử nghĩ ngược lại: “Làm sao để tiêu ít đi?”. Bỗng nhiên, mọi thứ sáng tỏ hơn. Đó chính là sức mạnh của tư duy ngược – cách suy nghĩ “đi đường vòng” để tìm lối ra. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng bạn khám phá tư duy ngược là gì, nó hoạt động ra sao, và làm thế nào để áp dụng nó vào cuộc sống một cách đơn giản mà hiệu quả.
Tư duy ngược là gì? Nghĩ ngược mà không “ngược đời”
Tư duy ngược, nói đơn giản, là thay vì nghĩ theo cách thông thường từ A đến Z, bạn đi từ Z ngược về A. Thay vì hỏi “Làm sao để thành công?”, bạn thử hỏi “Làm sao để thất bại?”. Nghe lạ đúng không? Nhưng chính cái lạ này lại giúp ta nhìn vấn đề rõ hơn, vì ta buộc phải nhìn từ một góc khác.
Ví dụ nhé: Bạn muốn mở một quán cà phê đông khách. Cách nghĩ bình thường là “Mình cần pha cà phê ngon, trang trí đẹp, chọn chỗ đông người qua lại”. Nhưng nếu nghĩ ngược, bạn tự hỏi: “Làm sao để quán cà phê của mình ế khách???”. Câu trả lời có thể là: pha cà phê dở, thái độ phục vụ tệ, chọn chỗ vắng hoe, trang trí tồi tài, không quảng cáo gì cả. Khi biết những điều khiến quán ế, bạn chỉ cần làm ngược lại – thế là có công thức để quán đông!
Tư duy ngược không phải là để làm ta rối, mà là để bạn thấy những thứ mà cách nghĩ thông thường hay bỏ qua. Nó giống như khi ta đứng ở cuối con đường nhìn ngược về điểm xuất phát, thay vì cứ mò mẫm đi tới mà không rõ đích đến.
Tư duy ngược “hay ho” như thế nào?
Bình thường, bộ não của chúng ta thích đi theo lối mòn. Khi muốn giảm cân, ta nghĩ ngay: “Phải ăn kiêng, phải tập gym”. Nhưng nếu mãi không giảm được, ta mau chán. Thử nghĩ ngược xem: “Làm sao để mình tăng cân thật nhanh?”. Có thể ta sẽ liệt kê: ăn toàn đồ chiên xào, uống nước ngọt mỗi ngày, ngồi ì một chỗ không vận động. Vậy muốn giảm cân, ta chỉ cần tránh những thứ đó – đơn giản hơn nhiều so với việc ép mình theo chế độ khắc nghiệt.
Tư duy ngược hay ở chỗ nó giúp ta tìm ra nguyên nhân gốc rễ, thay vì chỉ loay hoay với hiện tượng bề mặt. Nó cũng làm ta bật cười vì sự “ngược đời” của mình, từ đó bớt căng thẳng khi đối mặt với vấn đề. Chẳng hạn, nếu ta đang lo lắng vì công việc quá tải, thay vì hỏi “Làm sao để làm hết việc?”, thử hỏi “Làm sao để mình chẳng làm được gì?”. Câu trả lời có thể là: ngủ nướng, lướt điện thoại cả ngày, không lên kế hoạch. Biết vậy, ta chỉ cần làm ngược lại – dậy sớm, tắt thông báo điện thoại, lập danh sách việc cần làm – thế là xong!
Một vài ví dụ rất “đời” cho tư duy ngược
Để dễ hình dung, ta cùng xem một vài câu chuyện thật gần gũi nhé.
Ví dụ 1: Chuyện cái tủ quần áo lộn xộn
Nhà bạn có cái tủ quần áo lúc nào cũng như bãi chiến trường không? Bạn muốn dọn mà không biết bắt đầu từ đâu. Cách nghĩ thông thường là: “Mình phải xếp từng cái áo, phân loại đồ mùa đông, mùa hè”, rồi “xếp quần áo đi làm riêng, quần áo đi chơi riêng, vân vân mây mây. Nhưng bạn thử nghĩ ngược: “Làm sao để tủ càng ngày càng rối?”. Đáp án dễ thôi: cứ tiện tay là nhét đại quần áo vào, không gấp, mua thêm đồ mới mà không bỏ cái cũ. Vậy muốn tủ gọn, bạn làm ngược lại: bỏ bớt đồ không mặc, gấp gọn từng cái, để trống chỗ cho tủ “thở”. Chỉ sau một buổi chiều, tủ bạn đã “sang” hẳn!
Ví dụ 2: Chuyện đi học muộn
Bạn hay đi học hoặc đi làm muộn, dù đã cố gắng dậy sớm? Thay vì hỏi “Làm sao để đi đúng giờ?”, thử nghĩ ngược: “Làm sao để mình muộn hẳn luôn?”. Có thể là: tắt báo thức, nằm ngủ nướng thêm 30 phút, chọn quần áo mãi không xong. Biết những “thủ phạm” này, bạn chỉ cần làm ngược lại: đặt báo thức xa giường, chuẩn bị đồ từ tối hôm trước, dậy là bật người ra khỏi giường. Đơn giản mà hiệu quả bất ngờ!
Ví dụ 3: Chuyện kinh doanh nhỏ
Giả sử bạn bán hàng online mà khách thưa dần. Bạn nghĩ: “Mình phải đăng bài nhiều hơn, giảm giá sâu hơn”. Nhưng thử nghĩ ngược: “Làm sao để không ai mua hàng của mình?”. Câu trả lời có thể là: trả lời tin nhắn chậm, giao hàng lâu, sản phẩm kém chất lượng. Vậy để khách quay lại, bạn cải thiện tốc độ trả lời, giao hàng nhanh, và đảm bảo hàng tốt. Khách tự khắc đông lên mà bạn không cần giảm giá quá nhiều.
Làm sao để tập tư duy ngược?
Nghe thì hay, nhưng làm sao để áp dụng tư duy ngược vào cuộc sống mà không thấy “khó chịu”? Đừng lo, đây là vài mẹo nhỏ:
- Hỏi câu ngược lại: Gặp vấn đề gì, cứ thử đặt câu hỏi ngược. Muốn ngủ ngon? Hỏi “Làm sao để mất ngủ?”. Muốn tiết kiệm? Hỏi “Làm sao để tiêu hết tiền?”. Từ đó, bạn sẽ thấy hướng đi rõ hơn.
- Viết ra giấy: Liệt kê những thứ “ngược đời” bạn nghĩ ra, rồi chọn cách làm ngược lại. Viết ra giúp bạn không bị rối.
- Thử với việc nhỏ trước: Đừng vội áp dụng vào chuyện lớn như đổi công việc. Bắt đầu từ việc đơn giản như dọn bàn làm việc hay lên kế hoạch ngày mới.
Ví dụ, bạn muốn tập thể dục đều đặn. Thay vì nghĩ “Làm sao để duy trì?”, hỏi “Làm sao để mình bỏ cuộc?”. Có thể là: chọn bài tập quá nặng, không có lịch cụ thể, tập một mình chán. Vậy bạn làm ngược lại: chọn bài nhẹ nhàng, đặt lịch cố định, rủ bạn tập cùng – thế là gắn bó được lâu!
Cho nên, hãy nghĩ ngược để sống xuôi
Tư duy ngược không phải là cách nghĩ kỳ quái để làm màu, mà là một “công cụ” đơn giản giúp ta nhìn vấn đề từ góc khác. Ta không cần phải thông minh vượt trội, chỉ cần chịu thay đổi cách hỏi một chút. Từ chuyện nhỏ như dọn nhà, đi học đúng giờ, đến chuyện lớn như kinh doanh hay quản lý cuộc sống, tư duy ngược đều có thể “gỡ rối” cho ta.
Lần tới khi bị bế tắc, đừng vội cáu kỉnh. Thử đứng ở “đích đến” nhìn ngược về, biết đâu ta sẽ thấy con đường ngắn hơn để đi. Cuộc sống vốn đã phức tạp, sao không thử nghĩ ngược một chút để mọi thứ “xuôi” hơn? Nghĩ khác đi, ta sẽ ngạc nhiên với những gì mình làm được đấy!
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.
Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để “làm đẹp” văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như “người giữ hòa khí” để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!
Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?
Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.
Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là “good faith” trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc “nguyên tắc trung thực, thiện chí” ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.
Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?
Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.
Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.
Tại sao thiện chí lại quan trọng?
Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.
Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế
Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.
Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.
Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.
Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp
Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.
Nhưng thiện chí có giới hạn không?
Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.
Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.
Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta
Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.
Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Thiện chí trong những câu chuyện đời thường
Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.
Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.
Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.
Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?
Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:
- Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
- Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
- Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.
Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.
Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời
Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.
Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)
Giới thiệu tổng quan
Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.
1. Thông tin vụ việc
1.1. Bên yêu cầu
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
- Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
- Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
- Công ty Cổ phần Mía đường 333
- Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng
1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM
- Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
- Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
- Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
(Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)
1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM
- Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia
2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp
Mức thuế CBPG và CTC
Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)
Quốc gia |
Thuế CBPG |
Thuế CTC |
Campuchia |
42,99% |
4,65% |
Indonesia |
42,99% |
4,65% |
Lào |
42,99% |
4,65% |
Malaysia |
42,99% |
4,65% |
Myanmar |
42,99% |
4,65% |
Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:
Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:
- Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
- Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
- PT. Kebun Tebu Mas
- Mitr Lao Sugar Company Limited
- Savannakhet Sugar Corporation
- TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
- Than Daung OO Company Limited
- Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited
Thời hạn áp dụng
- Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
- Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
3. Tình trạng vụ việc hiện nay
- Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.
4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc
- Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
- Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.
Các sự kiện đáng chú ý
Thời gian |
Sự kiện |
21/09/2021 |
Khởi xướng điều tra |
01/08/2022 |
Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM |
28/03/2023 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/12/2023 |
Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/03/2024 |
Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới |
10/06/2024 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Kính chào Quý khách hàng,
Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.
Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam;
(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong.
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam
Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:
(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:
Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu.
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:
Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.
Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc.
Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.
Trân trọng,
Caselaw Việt Nam Team
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)
1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/BqXxug9SI9/thoa-thuan-dat-coc-mua-dat-nong-nghiep
- Số lượng điều khoản: 4 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/ROoRhUD1cN/hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-gop-von-bang-gia-tri-quyen-su-dung-dat
- Số lượng điều khoản: 11 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/AG0f9aFL00/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-tai-san-gan-lien-tren-dat-xay-dung-cua-hang-xang-dau
- Số lượng điều khoản: 5 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/lIzkSubzKW/hop-dong-cho-muon-dat
- Số lượng điều khoản: 12 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/3opJBbrs7V/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-quyen-so-huu-nha-o-ms-01
- Số lượng điều khoản: 15 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/921tNDPcw6/hop-dong-dat-coc-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-ms-01
- Số lượng điều khoản: 8 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/8D3CfBTSyz/hop-dong-the-chap-quyen-su-dung-dat-va-can-ho-ms-01
- Số lượng điều khoản: 14 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tuyển tập 11 án lệ được Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC ban hành trong năm 2018
Đang cập nhật
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)
Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sư: https://www.facebook.com/theskilledlawyers/
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)
6. THĂNG TIẾN
Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng.
Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.
7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG
Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.
8. DANH TIẾNG
Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp.
Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư.
Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư.
Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.
9. PARTNER so với TBPC
Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner.
Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết.
Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty.
Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách.
Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại.
Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.
Chúc may mắn!