cơ sở dữ liệu pháp lý

Tuyển tập 20 dự thảo án lệ năm 2018

1.  (Dự thảo án lệ số 01 năm 2018 về Hình sự) về tình tiết phạm tội “có tổ chức” trong tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”:

Các bị cáo cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật và thực hiện nhiều hành vi lừa dối khác để bị hại tin đó là sự thật và đưa tiền cho mình nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của bị hại. Các bị cáo tích cực thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành. Trường hợp này, các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung là “Có tổ chức”.

2.  (Dự thảo án lệ số 02 năm 2018 về Hình sự) Về tình tiết “giết nhiều người”, “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người”

Bị cáo bị đuổi đánh nên sử dụng dao khua khoắng loạn xạ với mục đích ngăn những người khác tiếp cận mình gây tử vong cho một người và gây thương tích cho một người khác; hành vi của bị cáo không xuất phát từ một lý do vô cớ hay vì một mâu thuẫn nhỏ nhặt và không có ý định tước đoạt tính mạng của bị hại. Trường hợp này, bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với tình tiết định khung là “giết nhiều người” và “có tính chất côn đồ”.

3.  (Dự thảo án lệ số 03 năm 2018 về Hình sự) Về không cho hưởng án treo vì “ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong tội “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên”

Bị cáo bị Tòa án xử phạt 01 năm tù về tội “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên”, mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 nhưng tình hình tội phạm “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên” đang gia tăng, có diễn biến phức tạp, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật đang tích cực đấu tranh nhằm bảo vệ tài nguyên của đất nước. Trường hợp này, Tòa án không cho bị cáo hưởng án 

4.  (Dự thảo án lệ số 04 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Bị cáo và bị hại đã xảy ra xô xát, đánh nhau. Bị hại dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị cáo trước, bị cáo chống trả làm văng hung khí khỏi tay bị hại. Mặc dù đã được người khác ngăn cản nhưng bị cáo và bị hại vẫn xông vào đánh nhau bằng chân, tay. Trong lúc vật lộn, bị cáo gây thương tích cho bị hại. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm về “Tội cố ý gây thương tích”

5.  (Dự thảo án lệ số 05 năm 2018 về Hình sự) Về áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ” đối với người giúp sức trong tội “Giết người

Người giúp sức mặc dù không có ý thức tước đoạt tính mạng của bị hại nhưng chấp nhận, để mặc hậu quả xảy ra. Người thực hành bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ”. Trường hợp này, người giúp sức không bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ”.

6.  (Dự thảo án lệ số 06 năm 2018 về Hình sự) Về khắc phục hậu quả trong “Tội tham ô tài sản”

Bị cáo dùng giấy tờ giả, xe máy mang biển kiểm soát giả đi cầm cố nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, việc chưa chiếm đoạt được tài sản và không thực hiện được tội phạm đến cùng do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo. Trường hợp này, Tòa án phải xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa 

7.  (Dự thảo án lệ số 07 năm 2018 về Hình sự) Về khắc phục hậu quả trong “Tội tham ô tài sản”

Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý của Ngân hàng, nhiều lần làm các thủ tục để rút tiền nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của Ngân hàng. Hành vi của bị cáo cấu thành “Tội tham ô tài sản” mặc dù đã khắc phục một phần số tiền đã chiếm đoạt và Ngân hàng đã thu hồi được tiền. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội tham ô tài sản” trên toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt.

8.  (Dự thảo án lệ số 08 năm 2018 về Hình sự) Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không cho hưởng án treo trong “Tội dâm ô đối với trẻ em

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định bị cáo bị bệnh cao huyết áp, Parkison nên có ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình”, là không có căn cứ pháp luật

9.  (Dự thảo án lệ số 09 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích” trong khi thi hành công vụ

Bị cáo là công an xã sử dụng vũ lực trong lúc lấy lời khai của bị hại, việc bị cáo sử dụng vũ lực không thuộc trường hợp được sử dụng vũ lực trong khi thi hành công vụ theo quy định của pháp luật. Việc bị hại chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội cố ý gây thương tích” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

10.  (Dự thảo án lệ số 10 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Không tố giác tội phạm”

Tòa án cấp phúc thẩm xác định hành vi của bị cáo đã phạm tội “Không tố giác tội phạm" và áp dụng khoản 1 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với bị cáo là không có căn cứ

11. (Dự thảo án lệ số 11 năm 2018 về Hình sự) Về không cho hưởng án treo vì “ảnh hưởng xấu đến môi trường, sinh thái” trong tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ

Các bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép động vật thuộc danh mục các loài nguy cấp quý hiếm được ưu tiên bảo vệ với số lượng lớn, đều thuộc phụ lục IB danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ theo Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Các bị cáo phạm tội thuộc khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm

12.  (Dự thảo án lệ số 12 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi giết người đang thi hành công vụ

Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội Giết người” với tình tiết định khung là “Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”.

13.  (Dự thảo án lệ số 13 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Vô ý làm chết người”

Bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, cùng một phe trong lúc đánh nhau; bị cáo khua súng chống đỡ sự tấn công của người khác, trong lúc chống đỡ bị cáo vô tình làm súng nổ mà không có ý thức nhằm vào người khác để bắn. Bị hại chết là ngoài ý muốn chủ quan bị 

14.  (Dự thảo án lệ số 14 năm 2018 về Dân sự) Về di sản chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

15.  (Dự thảo án lệ số 15 năm 2018 về Dân sự) Về phạt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

16. (Dự thảo án lệ số 16 năm 2018 về Dân sự) Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do nhầm lẫn

Quan hệ pháp luật không phải là kiện đòi tài sản mà là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đúng, Tòa án cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật là kiện đòi tài sản là không chính xác.

17.  (Dự thảo án lệ số 17 năm 2018 về Dân sự) Về trách nhiệm chi trả quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp yêu cầu kê khai thông tin không rõ ràng

Hợp đồng bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm có yêu cầu không rõ ràng về việc kê khai tình trạng bệnh lý của người được bảo hiểm mà thông tin đó không phải là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm

18.  (Dự thảo án lệ số 18 năm 2018 về Kinh doanh thương mại) Về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản; hủy quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại

Trường hợp này, Tòa án phải xác định bên thuê có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho bên cho thuê; thiệt hại thực tế là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng.

19.  (Dự thảo án lệ số 19 năm 2018 về Kinh doanh thương mại) Về tính hợp pháp của Thư ký ghi biên bản phiên họp Đại hội đồng cổ đông không phải là Thư ký của công ty

Chủ toạ cử một người làm thư ký lập biên bản họp Đại hội đồng cổ đông” nhưng Luật Doanh nghiệp không quy định thư ký Đại hội đồng cổ đông, phải là thư ký của công ty

20.  Dự thảo án lệ số 20 về Lao động: Xác lập quan hệ hợp đồng lao động theo loại hợp đồng trong thư mời làm việc sau khi hết thời gian thử việc

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

Tìm hiểu bài này nếu bạn có ý định chuyển hướng sự nghiệp từ môi trường Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Nếu là một luật sư đang tìm kiếm con đường thăng tiến trong sự nghiệp, hẳn bạn đã từng phân vân giữa việc theo đuổi một vị trí tại môi trường Công ty luật (law firm) hay là tại pháp chế doanh nghiệp (in-house legal)? Mỗi môi trường đều có những đặc thù riêng, yêu cầu khác nhau và mở ra những cơ hội phát triển khác biệt.

Phân vân quả thực là có cơ sở. Bài viết phân tích sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ ưu, nhược điểm của từng lựa chọn và chuẩn bị sẵn sàng cho một lộ trình sự nghiệp vững chắc và phù hợp với chính mình.

1. Sự khác biệt về môi trường làm việc

1.1 Văn hóa làm việc

Tại Công ty luật

Bạn thích một môi trường năng động, cạnh tranh, nơi bạn liên tục đối mặt với những thử thách pháp lý phức tạp? Nếu vậy, môi trường làm việc tại Công ty luật có thể là lựa chọn lý tưởng. Tại đây, bạn sẽ làm việc với nhiều khách hàng khác nhau, từ doanh nghiệp đến cá nhân, xử lý các vụ kiện, giao dịch, hoặc các vấn đề pháp lý quan trọng từ góc độ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng của mình.

Cạnh tranh trong Công ty luật rất khốc liệt. Tại 1 số công ty luật, bạn được đánh giá qua số giờ làm việc có thể tính phí, khả năng thu hút khách hàng và hiệu suất công việc. Nhịp độ làm việc nhanh, khối lượng công việc lớn và đôi khi bạn phải làm việc ngoài giờ để đáp ứng yêu cầu về tiến độ của khách hàng.

Pháp chế doanh nghiệp

Nếu bạn muốn tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp và đồng hành cùng một tổ chức lâu dài thì vai trò pháp chế có thể phù hợp hơn. Tại đây, bạn tập trung vào việc hỗ trợ pháp lý cho công ty mình, khi đó khách hàng của bạn là các phòng ban nội bộ của công ty. Bạn cần hiểu sâu về mô hình kinh doanh, chính sách nội bộ để có thể thực hiện của mình.

Khác với khi làm việc tại Công ty luật, bạn không có áp lực billable hours nhưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo công ty luôn tuân thủ pháp luật và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Khi công ty gặp vấn đề pháp lý, áp lực lên bạn có thể rất lớn.

1.2. Áp lực công việc

Tại Công ty luật

Như đã đề cập ở trên, bạn sẽ đối mặt với áp lực doanh số và deadline luôn thường trực khi làm việc tại Công ty luật. Nếu bạn làm tư vấn pháp lý trong lĩnh vực M&A, tài chính, hoặc tranh tụng, khối lượng công việc có thể biến động mạnh, nhất là trong các giao dịch quan trọng của khách hàng hoặc các vụ tranh chấp lớn.

Pháp chế doanh nghiệp

Công việc pháp chế trông có vẻ ổn định hơn nhưng vẫn đầy thách thức không kém. Bạn cần có khả năng cân bằng giữa tuân thủ pháp luật và đáp ứng nhu cầu kinh doanh, một nhiệm vụ không hề đơn giản. Một trong những thách thức lớn nhất của luật sư pháp chế là phải đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, nhưng đồng thời không làm cản trở các hoạt động kinh doanh. Các phòng ban như kinh doanh, marketing, tài chính thường đưa ra những sáng kiến mới để thúc đẩy doanh thu, nhưng đôi khi, các chiến lược này có thể tiềm ẩn rủi ro pháp lý. Vai trò của bạn là phải tìm ra giải pháp hợp pháp mà vẫn hỗ trợ được mục tiêu thương mại. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt, tư duy chiến lược và kỹ năng giao tiếp xuất sắc.

Nếu doanh nghiệp vướng vào tranh chấp hợp đồng, kiện tụng lao động, hay bị cơ quan chức năng thanh tra, bạn sẽ là người chịu trách nhiệm chính. Khi đó, bạn phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận liên quan, quản lý khủng hoảng, làm việc với cơ quan quản lý và tư vấn cho ban lãnh đạo về hướng giải quyết. 

Ngoài ra, khi xảy ra mâu thuẫn nội bộ, chẳng hạn như xung đột giữa nhân viên và công ty, hay giữa các cổ đông, bạn cũng phải đóng vai trò trung gian để giải quyết vấn đề một cách hợp lý, tránh leo thang thành tranh chấp pháp lý.

1.3. Cách đưa ra ý kiến pháp lý: Chủ động hay hỗ trợ?

Tại Công ty luật

Trong Công ty luật, luật sư thường đưa ra ý kiến pháp lý độc lập. Các ý kiến này chủ yếu phục vụ khách hàng bên ngoài, được trình bày dưới dạng bản tư vấn pháp lý, email tư vấn hoặc lập luận trong hồ sơ tranh tụng. Trong một số trường hợp, khách hàng có thể yêu cầu bạn tư vấn theo hướng có lợi cho họ, nhưng nhìn chung, nhiệm vụ của luật sư tại Công ty luật là cung cấp quan điểm pháp lý trung lập và giúp khách hàng hiểu rõ rủi ro pháp lý của từng quyết định.

Pháp chế doanh nghiệp

Ngược lại, luật sư pháp chế không chỉ đưa ra ý kiến pháp lý mà còn phải định hướng giải pháp phù hợp với chiến lược kinh doanh. Điều này có nghĩa là bạn không chỉ phân tích luật mà còn phải xem xét các yếu tố tài chính, thương mại, nhân sự và cả văn hóa, quy trình trong doanh nghiệp. Đôi khi, bạn phải đề xuất phương án tối ưu thay vì chỉ nêu rủi ro.

Ví dụ, nếu phòng kinh doanh muốn thực hiện một chiến dịch quảng cáo mới nhưng có nguy cơ vi phạm quy định về cạnh tranh, thay vì chỉ cảnh báo "Không được làm," bạn cần đề xuất cách thức thực hiện hợp pháp hoặc điều chỉnh nội dung quảng cáo để giảm thiểu rủi ro.

1.4. Cơ hội phát triển sự nghiệp: Đâu là con đường dài hạn của bạn?

Tại Công ty luật

Nếu bạn muốn thăng tiến nhanh và có thu nhập cao, Công ty luật có thể là lựa chọn hấp dẫn. Con đường sự nghiệp của bạn thường sẽ theo lộ trình Associate → Senior Associate → Partner. Tuy nhiên, để lên Partner, bạn cần không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có kỹ năng phát triển khách hàng, xây dựng thương hiệu cá nhân và đóng góp vào sự phát triển của công ty luật.

Pháp chế doanh nghiệp

Dù áp lực lớn, nhưng nếu bạn có năng lực, bạn sẽ có cơ hội thăng tiến nhanh lên các vị trí cao như Trưởng phòng Pháp chế (Head of Legal) hoặc Giám đốc Pháp chế (General Counsel). Ở cấp độ này, bạn không chỉ làm về pháp lý mà còn tham gia vào các quyết định chiến lược của doanh nghiệp, có tiếng nói quan trọng trong định hướng và có thể mở rộng sang các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp.

2. Bí quyết thích nghi khi chuyển từ Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

2.1. Thách thức khi chuyển từ Tại Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Việc chuyển từ lCông ty luật sang pháp chế doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là thay đổi môi trường làm việc, mà còn là một sự điều chỉnh toàn diện về tư duy và phương pháp làm việc. Một trong những thách thức lớn nhất mà các luật sư gặp phải là thay đổi vai trò từ luật sư tư vấn sang người cố vấn nội bộ. Trong Công ty luật, luật sư có xu hướng tập trung vào giải quyết vấn đề theo yêu cầu của khách hàng, nhưng trong pháp chế, luật sư phải chủ động xác định rủi ro trước khi vấn đề xảy ra.

Bên cạnh đó, khả năng thích nghi với quy trình nội bộ và làm việc nhóm cũng là một thử thách không nhỏ. Trong Công ty luật, luật sư chủ yếu làm việc với các đồng nghiệp có chuyên môn pháp lý, nhưng khi làm pháp chế, bạn sẽ phải phối hợp với nhiều bộ phận như tài chính, nhân sự, kinh doanh, và vận hành. Điều này đòi hỏi bạn không chỉ hiểu luật mà còn phải biết cách diễn giải luật sao cho phù hợp với từng bộ phận.

Ngoài ra, một số luật sư chuyển sang pháp chế có thể cảm thấy thiếu động lực do không còn làm việc trong môi trường có sự cạnh tranh cao như Công ty luật. Không còn áp lực billable hours hoặc thăng tiến nhanh chóng, một số luật sư có thể mất đi sự thúc đẩy từ bên ngoài, đòi hỏi họ phải tự tạo động lực cho bản thân thông qua việc đóng góp giá trị dài hạn cho doanh nghiệp.

Một trong những thách thức lớn khác khi làm việc tại vị trí pháp chế nội bộ mà nhiều người không lường trước chính là việc phải làm việc độc lập, không có team hỗ trợ. Trong Công ty luật, bạn có đồng nghiệp và cấp trên là những luật sư có chuyên môn sâu, có thể hỗ trợ và cùng thảo luận các vấn đề pháp lý phức tạp. Tuy nhiên, sẽ không hiếm các doanh nghiệp cơ cấu bộ phận, vị trí pháp chế chỉ có 01 người duy nhất của phòng pháp chế. Khi đó, bạn có thể phải tự xử lý tất cả các vấn đề pháp lý, từ hợp đồng, lao động, tranh chấp, cho đến tuân thủ quy định ngành. Bạn có thể phải một mình làm tất cả, đôi khi phải vừa soạn thảo hợp đồng, vừa làm việc với cơ quan quản lý nhà nước, vừa tư vấn về tranh chấp nội bộ. Đây là một áp lực lớn, vì không phải lúc nào bạn cũng có ai đó để tham khảo ý kiến hoặc hỗ trợ chuyên môn. Trong những trường hợp phức tạp, bạn có thể cần thuê tư vấn từ Công ty luật bên ngoài, nhưng bạn vẫn là người chịu trách nhiệm chính và phải đưa ra đề xuất giải pháp phù hợp với chiến lược kinh doanh của công ty.

Vẫn còn, khi làm việc tại vị trí pháp chế, bạn có thể không báo cáo trực tiếp cho một luật sư, mà cho lãnh đạo cấp cao không có chuyên môn về luật, chẳng hạn như Giám đốc Tài chính, Giám đốc Nhân sự, hoặc Tổng Giám đốc. Những lãnh đạo này quan tâm đến tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoài việc tuân thủ các quy định pháp luật, do đó, nếu bạn không biết cách trình bày vấn đề theo góc nhìn của họ, họ có thể không đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của rủi ro pháp lý cũng như đánh giá chính xác khả năng làm việc của bạn.

Cuối cùng, hiểu rõ hệ thống quản trị doanh nghiệp của các tập đoàn lớn (MNC) hoặc công ty có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Các công ty này thường có hệ thống kiểm soát tuân thủ rất nghiêm ngặt, yêu cầu luật sư pháp chế không chỉ nắm vững pháp luật Việt Nam mà còn phải hiểu các chuẩn mực quốc tế, các chính sách nội bộ do tập đoàn mẹ ban hành. Đặc biệt, việc tương tác với các giám đốc điều hành hoặc cố vấn pháp lý toàn cầu có thể là một thách thức nếu bạn chưa quen làm việc trong môi trường quốc tế.

2.2. Chuyển đổi tư duy từ tranh tụng sang phòng ngừa rủi ro

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc giải quyết tranh chấp hoặc xử lý các giao dịch quan trọng. Nhưng khi làm pháp chế, nhiệm vụ của bạn không chỉ là xử lý vấn đề mà mang tâm lý "nên ngăn chặn ngay từ đầu". Bạn cần có cái nhìn dài hạn, giúp công ty hoạt động tuân thủ mà vẫn đạt được mục tiêu kinh doanh.

Một ví dụ điển hình là khi công ty muốn mở rộng hoạt động kinh doanh hoặc ra mắt sản phẩm mới. Luật sư pháp chế không chỉ đơn thuần xem xét hợp đồng, mà còn phải đánh giá toàn bộ quy trình để đảm bảo không có rủi ro pháp lý tiềm ẩn, từ vấn đề sở hữu trí tuệ, cấp phép, quảng cáo đến bảo vệ dữ liệu khách hàng.

2.3. Học cách hiểu và đồng hành cùng doanh nghiệp

Trong Công ty luật, bạn chỉ tập trung vào pháp lý. Nhưng khi làm pháp chế, bạn cần hiểu sâu về chiến lược kinh doanh, vận hành nội bộ, và văn hóa công ty. Điều này giúp bạn đưa ra tư vấn phù hợp với thực tế, thay vì chỉ áp dụng lý thuyết pháp lý một cách máy móc.

Các công ty MNC và FDI thường có các chỉ số KPI liên quan đến pháp chế, chẳng hạn như mức độ tuân thủ, thời gian xử lý hợp đồng, hoặc hiệu suất giải quyết tranh chấp. Luật sư pháp chế cần chủ động tìm hiểu những chỉ số này để đưa ra tư vấn sát với nhu cầu kinh doanh.

2.4. Phát triển kỹ năng giao tiếp và làm việc với nhiều bộ phận

Một luật sư pháp chế giỏi không chỉ giỏi về luật mà còn cần giao tiếp tốt với các bộ phận như tài chính, nhân sự, marketing. Bạn cần diễn giải các quy định pháp luật một cách dễ hiểu, thực tế để các bộ phận khác có thể áp dụng mà không gây cản trở hoạt động kinh doanh.

Đặc biệt, trong các doanh nghiệp lớn, kỹ năng làm việc với các cấp lãnh đạo (C-Level) là rất quan trọng. Bạn cần biết cách trình bày vấn đề pháp lý một cách ngắn gọn, trực tiếp và tập trung vào tác động kinh doanh thay vì sử dụng quá nhiều thuật ngữ pháp lý chuyên sâu.

2.5. Thích nghi với quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc làm theo từng vụ việc, nhưng trong doanh nghiệp, bạn cần hiểu rõ hệ thống quy trình nội bộ, từ phê duyệt hợp đồng, kiểm soát tuân thủ, đến quản lý rủi ro. Học cách làm việc trong hệ thống lớn là chìa khóa để thành công.

Một trong những điểm khác biệt lớn giữa Công ty luật và pháp chế doanh nghiệp là cách thức đưa ra quyết định. Trong Công ty luật, bạn có thể có quyền quyết định về mặt pháp lý trong một vụ việc cụ thể. Nhưng trong doanh nghiệp, quyết định cuối cùng thường do người có thẩm quyền hoặc theo cơ chế phân yêu quyền để đủa quyết định. Điều này đòi hỏi bạn phải có khả năng thương lượng, đề xuất phương án khả thi thay vì chỉ đưa ra ý kiến pháp lý đơn thuần.

2.6. Nâng cao kỹ năng đàm phán và quản trị rủi ro

Bạn sẽ tham gia đàm phán với đối tác, nhà cung cấp và khách hàng để bảo vệ lợi ích của công ty. Hãy học cách thương lượng hiệu quả, đánh giá rủi ro hợp đồng, và đưa ra biện pháp giảm thiểu rủi ro một cách linh hoạt.

Trong các công ty MNC và FDI, các hợp đồng thương mại thường được đàm phán không chỉ dựa trên luật Việt Nam mà còn tuân thủ các điều khoản và nguyên tắc quốc tế. Việc nắm vững các nguyên tắc về trọng tài quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp xuyên biên giới và các điều khoản bảo vệ doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp là điều rất quan trọng đối với luật sư pháp chế.

Tóm lại, việc chuyển từ Công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm với không ít thách thức. Để thành công, bạn cần trang bị tư duy chiến lược, khả năng giao tiếp tốt, hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh và khả năng làm việc trong một hệ thống phức tạp. Khi bạn có thể kết hợp tốt giữa kiến thức pháp lý và tư duy kinh doanh, bạn không chỉ là một luật sư giỏi mà còn là một cố vấn chiến lược thực sự cho doanh nghiệp.

3. Kết luận

Nếu bạn đang cân nhắc chuyển từ Công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp, hãy tự hỏi mình: Bạn có sẵn sàng thay đổi tư duy từ xử lý tranh chấp sang phòng ngừa rủi ro? Bạn có thể làm việc độc lập mà không có sự hỗ trợ của một đội ngũ luật sư? Bạn có đủ kiên nhẫn để giải thích các vấn đề pháp lý theo cách mà lãnh đạo không chuyên về luật có thể hiểu và đưa ra quyết định?

Việc chuyển đổi không đơn thuần là thay đổi môi trường làm việc, mà là sự thích nghi với một vai trò hoàn toàn mới. Bạn cần phát triển tư duy kinh doanh, học cách giao tiếp hiệu quả với các bộ phận khác nhau trong công ty và luôn chủ động trong việc đề xuất giải pháp thay vì chỉ cảnh báo rủi ro.

Nếu bạn muốn có một sự chuyển đổi suôn sẻ, hãy bắt đầu bằng việc trau dồi kỹ năng quản trị rủi ro, thương lượng hợp đồng, giao tiếp với lãnh đạo cấp cao và hiểu sâu về mô hình kinh doanh. Hãy kết nối với những người đã đi trước trong lĩnh vực pháp chế, tham gia vào các hội thảo, nhóm về pháp chế doanh nghiệp và không ngừng học hỏi.

[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu

Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.

Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.

1. Cơ sở pháp lý của chính sách

Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:

  • Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
  • Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
  • Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
  • Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
  • Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
  • Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.

2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau

(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:

  • UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
  • Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
  • Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.

(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:

  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
  • Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.

(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:

  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
  • Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.

3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.

Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:

- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.

- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.

Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.

5. Lộ trình thực hiện

Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.

Cập nhật: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội

Bộ Xây dựng đang chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội (NƠXH) nhằm tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy nguồn cung nhà ở cho người thu nhập thấp. Nghị quyết này được xây dựng với sự phối hợp của các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, tập trung vào các chính sách ưu đãi về tài chính, đất đai, thủ tục đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nhà ở xã hội.

Dự thảo này đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng về cơ chế giao chủ đầu tư, nguồn vốn phát triển NƠXH, ưu đãi tài chính và thủ tục đầu tư xây dựng.

1. Mục tiêu hướng đến của của nghị quyết:

  • Đẩy nhanh tiến độ xây dựng NƠXH bằng cách đơn giản hóa thủ tục đầu tư.
  • Tạo cơ chế linh hoạt hơn cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
  • Mở rộng nguồn vốn phát triển NƠXH, bao gồm Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Tăng cường hỗ trợ người dân có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở xã hội.

2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

2.1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị quyết này thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển nhà ở xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, không áp dụng đối với dự án NƠXH sử dụng vốn đầu tư công​.

Các nội dung thí điểm bao gồm:

  • Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Giao chủ đầu tư không qua đấu thầu.
  • Cơ chế hỗ trợ giải phóng mặt bằng và hạ tầng kỹ thuật.
  • Quy định lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư.

2.2. Đối tượng áp dụng

Dự thảo Nghị quyết áp dụng đối với:

  • Cơ quan nhà nước liên quan đến phát triển và quản lý NƠXH.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (triển khai nhà ở cho công nhân).
  • Doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đầu tư xây dựng NƠXH.
  • Người dân thuộc diện được hưởng chính sách NƠXH​.

3. Những cơ chế, chính sách đặc thù trong Dự thảo Nghị quyết

3.1. Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia

Dự thảo đề xuất thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia, là quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Quỹ này có chức năng​:

  • Hỗ trợ lãi suất cho vay không yêu cầu thế chấp đối với người dân.
  • Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xây dựng NƠXH bằng hình thức tín dụng ưu đãi.
  • Quản lý quỹ nhà ở xã hội trên cả nước.

3.2. Giao chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không qua đấu thầu

Theo Dự thảo, các cơ quan sau được quyền giao chủ đầu tư dự án NƠXH mà không cần đấu thầu​:

  • Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH trên địa bàn.
  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH dành cho lực lượng vũ trang.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao chủ đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân bằng nguồn tài chính công đoàn.

Điều này giúp đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, tránh tình trạng kéo dài do thủ tục đấu thầu phức tạp.

3.3. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng và phát triển hạ tầng

Dự thảo quy định sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để​:

  • Hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các dự án NƠXH.
  • Đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đi kèm với NƠXH.

Chính sách này giúp giảm chi phí ban đầu cho chủ đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển NƠXH.

3.4. Quy định về lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư

Dự thảo đưa ra quy định lợi nhuận định mức tối đa mà chủ đầu tư được hưởng đối với phần diện tích xây dựng NƠXH là 13% tổng chi phí đầu tư xây dựng​.

Việc giới hạn lợi nhuận giúp kiểm soát giá thành nhà ở xã hội, đảm bảo mức giá phù hợp cho người thu nhập thấp.

4. Tác động dự kiến của Dự thảo Nghị quyết

4.1. Đối với chủ đầu tư

Dự thảo Nghị quyết mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Một trong những điểm đáng chú ý là chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, giúp chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp hơn so với thị trường. Điều này góp phần giảm gánh nặng tài chính và thúc đẩy việc triển khai các dự án nhanh chóng hơn.

Bên cạnh đó, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu giúp rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư, tránh tình trạng chậm trễ do các thủ tục hành chính kéo dài. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp sớm triển khai dự án, đáp ứng nhu cầu nhà ở xã hội ngày càng cao.

Ngoài ra, chủ đầu tư còn được hỗ trợ giải phóng mặt bằng và đầu tư hạ tầng kỹ thuật, góp phần giảm chi phí ban đầu và tăng hiệu quả kinh doanh. Chính sách này giúp doanh nghiệp giảm áp lực về tài chính và đảm bảo tiến độ thi công các dự án nhà ở xã hội theo kế hoạch.

4.2. Đối với người dân

Dự thảo Nghị quyết cũng mang lại nhiều tác động tích cực đối với người dân, đặc biệt là các nhóm đối tượng có thu nhập thấp. Nhờ các chính sách kiểm soát giá thành và ưu đãi cho chủ đầu tư, giá bán và giá thuê nhà ở xã hội được điều chỉnh ở mức hợp lý hơn, giúp nhiều người có cơ hội sở hữu hoặc thuê nhà với chi phí phù hợp với khả năng tài chính.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp giúp người mua nhà giảm gánh nặng tài chính. Nhờ thời gian vay kéo dài, người thu nhập thấp có thể tiếp cận nhà ở dễ dàng hơn mà không phải lo lắng về áp lực trả nợ trong thời gian ngắn.

Ngoài việc hỗ trợ tài chính, Dự thảo còn tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhà ở xã hội. Điều này không chỉ giúp mở rộng nguồn cung mà còn mang đến nhiều lựa chọn hơn cho người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định thị trường nhà ở xã hội trong thời gian tới.

5. Kết luận

Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế thí điểm phát triển nhà ở xã hội mang lại nhiều thay đổi quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án NƠXH, hỗ trợ tài chính cho chủ đầu tư và giúp người dân tiếp cận nhà ở với chi phí hợp lý hơn.

Với các cơ chế như thành lập Quỹ phát triển NƠXH, giao chủ đầu tư không qua đấu thầu, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiểm soát lợi nhuận, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp thị trường NƠXH phát triển mạnh mẽ hơn​ trong thời gian tới.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn

Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!

Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.

Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?

Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Luật yêu cầu:

  • Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
  • Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
  • Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.

Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”

Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.

Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.

Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu

Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:

  • Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
  • Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
  • Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.

Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.

Tại sao cần quan tâm?

Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.

Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Dự thảo án lệ số 18/2024 về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 18/2024[1]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2024 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B và UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Tại thời điểm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, nên người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 11, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ

- Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Từ khóa của án lệ:

“Quyết định thu hồi đất”, “Xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

*Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và người khởi kiện ông Trần Văn H trình bày:

Gia đình ông Trần Văn H bị thu hồi 2.899 m2 đất trong công trình BOT ĐT- 747B đoạn đi xã Khánh Bình (nay là phường K) huyện T (nay là thị xã T). Đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được triển khai thực hiện từ năm 2010.

Tại buổi làm việc đầu tiên ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H đã không đồng ý với yêu cầu nhận tiền bồi thường, bàn giao cho ông Trần Văn H các văn bản như sau:

- Quyết định số: 9858/QĐ-UBND, ngày 03/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B từ đoạn nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

- Quyết đinh số: 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, ngụ tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường, do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2.899,2m2 đất của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Ngày 24/12/2014, ông H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2.899,2 m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

Ngày 10/4/2015, Trung tâm phát triển đất thị xã T tiến hành đối thoại giải quyết các nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H; ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số: 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H với cùng kết luận như kết quả đối thoại là Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2.899,2m2 đất của ông H bị thu hồi là đúng theo quy định, cụ thể:

Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông Trần Văn H, trong khi Quyết định có ghi rõ ông Trần Văn H có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại theo khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T có quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 14092/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận quyết định số 10492/QĐ-UBND (ngày 18/12/2014).

Về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số: 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường.

Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại Phương án bồi thường, hỗ trợ số: 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên - Môi trường “.. giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm...

Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo đất tại thời điểm thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Ông Trần Văn H không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 trả lời đơn khiếu nại và đề nghị của ông Trần Văn H như nêu trên bằng quyết định giải quyết khiếu nại. Ngày 06/9/2016, ông Trần Văn H khiếu nại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T nêu trên, yêu cầu: Hủy bỏ công văn số 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T về việc trả đơn của ông Trần Văn H; Yêu cầu UBND thị xã T giao Quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng trình tự quy định pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ- UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H (giá đất bồi thường tại thời điểm thu hồi đất) hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

Ngày 30/12/2015, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành quyết định 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD, ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T và Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, với nội dung:

Về trình tự, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ: UBND thị xã T đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ- UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện ban ngành thị xã T đã phối hợp với UBND K tổ chức hợp dân công khai phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường đúng theo quy định.

Về đơn giá bồi thường, hỗ trợ: Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương). Trong đó, quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ về đất áp dụng theo Quyết định số 66/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 ban hành quy định bản giá các loại đất năm 2012 và Quyết định số 67/2011/QĐ-UBND ngày 20/11/2011 của UBND tỉnh Bình Dương ban hành hệ số điều chỉnh giá đất (K) năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những đoạn nắn tuyến có phạm vi giải tỏa ngoài 19m (tính từ tim đường), đối với đất nông nghiệp được hỗ trợ bằng 70% giá đất ở theo Công văn số 492/UBND-KTN. Theo đó, đơn giá bồi thường đất trồng cây lâu năm cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là: 168.000 đồng/m2, hỗ trợ đất nông nghiệp thửa đất số 68 bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 521,5m2, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng 50% đơn giá đất ở với diện tích: 875,5m2, hỗ trợ nắn tuyến bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 103m2, tổng phân tích hỗ trợ bằng 05 lần hạn mức giao đất ở (5 lần x 300 m2 = 1500 m2) đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt tại Quyết định số: 9858/QĐ-UBND.

Đối với nội dung ông Trần Văn H yêu cầu trao đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương: do là dự án nâng cấp, mở rộng đường (ĐT 747B) nên diện tích các hộ dân bị ảnh hưởng nhỏ, phần diện tích còn lại đảm bảo xây dựng nhà ở, tái thiết cuộc sống và số lượng các hộ dân giải tỏa trắng hết đất là rất ít. Do đó, công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đển điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất thời điểm quyết định thu hồi đất là đúng theo quy định tại khoản 2, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ.

Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 07/02/2017 ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6546/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H với nội dung:

Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2028,2 m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

Việc UBND thị xã T thực hiện các thủ tục giải tỏa, bồi thường đối với quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H và UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H là trái pháp luật, cụ thể:

Về trình tự thủ tục giải tỏa, bồi thường:

Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên thực hiện không đúng theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, cụ thể:

Căn cứ các Điều 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Điều 46, 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B về chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương quy định về việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quyết định thu hồi đất, phê duyệt, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì đều quy định trước khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được gửi đến Cơ quan tài nguyên và Môi trường thẩm định, thì phải được tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức công bố, niêm yết công khai để người bị thu hồi đất và những người có liên quan tham gia ý kiến để hoàn chỉnh phương án. Sau khi Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Tuy nhiên, từ khi dự án triển khai năm 2011 đến ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H mới được mời để yêu cầu nhận tiền bồi thường là hơn hai năm, ngoài ra ông Trần Văn H không được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND K (nay phường K) hay bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào thông báo ông Trần Văn H đến để công bố dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt, cũng như nhận các quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, để ông Trần Văn H biết được quyền sử dụng đất của mình được giải tỏa, bồi thường như thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình, thực hiện chủ trương chung của địa phương, trong khi theo các quy định của pháp luật nêu trên đều quy định ông Trần Văn H được thực hiện quyền của người có đất bị thu hồi là tham gia ý kiến đối với phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư, được phổ biến phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt, được nhận quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày phương án bồi thường được phê duyệt.

Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại lại trả lời ông Trần Văn H là đã mời ông Trần Văn H đến UBND xã K để công bố và bàn giao Quyết định thu hồi đất theo giấy mời số 112/GM-TN&MT tuy nhiên ông Trần Văn H không đến nên lập biên bản niêm yết. Việc Chủ tịch UBND thị xã T, Chủ tịch UBND tỉnh B đã trả lời như trên là hoàn toàn dối trá, ông Trần Văn H vô cùng bức xúc vì tại Công văn 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T và qua các lần làm việc đối thoại trước đó ngày 10/4/2015 ghi nhận rất rõ ràng lý do quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H được phê duyệt tháng 10/2012 nhưng đến ngày 18/12/2014 mới tổ chức mời ông Trần Văn H nhận quyết định và nhận tiền bồi thường là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ.

Phương án bồi thường, giải tỏa và hỗ trợ tái định cư trái pháp luật, cụ thể: Tại Mục 5 quy định các chính sách hỗ trợ đã quy định hạn chế phạm vi được hỗ trợ của người có đất bị thu hồi là chỉ trong phạm vi giải tỏa từ 10m đến 19m thì mới được hỗ trợ, trong khi theo các quy định tại Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; Điều 34 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B quy định về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư đất vườn, ao không được công nhận là đất ở, thì hoàn toàn không có quy định nào cho phép UBND huyện T quy định hạn chế, giới hạn phạm vi giải tỏa được hỗ trợ mà trái lại theo các quy định trên thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích nhưng không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại thời điểm thu hồi.

Quyết định số 8483/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T về việc thu hồi đất; Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng trái pháp luật:

Các quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống, kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 28/12/2011 nhưng ông Trần Văn H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông Trần Văn H bị giải tỏa, không xác định ranh móc phần đất giải toả như vậy làm sao xác định được diện tích đất giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất, tính giá bồi thường. Đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT, lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H vào ngày 23/8/2012.

Như vậy, qua quá trình thực hiện giải toàn bộ thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phân tích như trên, có thể thấy rằng trình tự, thủ tục bồi thường giải tỏa, bổi thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là hoàn toàn trái pháp luật.

Giá bồi thường:

Vấn đề sau hơn hai năm (ngày 18/12/2014), ông Trần Văn H mới nhận được Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, bản áp giá bồi thường, trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T đều trả lời ông Trần Văn H thời hiệu khiếu nại được tính từ ngày ông Trần Văn H nhận quyết định là ngày 18/12/2014, nên rõ ràng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T ban hành và Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T có hiệu lực kể từ ngày 18/12/2014 và vì đây là quyết định hành chính áp dụng đối với ông Trần Văn H nên đương nhiên sẽ phát sinh hiệu lực khi ông Trần Văn H nhận được quyết định ngày 18/12/2014 và quyết định này hoàn toàn không có giá trị pháp lý khi UBND huyện T ban hành và trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên lưu trữ tại cơ quan mà không giao cho ông Trần Văn H.

Như vậy, căn cứ khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của lại đât bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì giá đất để tính bồi thường cho ông Trần Văn H phải là giá đất năm 2015 nhưng quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Hơn nữa, căn cứ khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Vì vậy ông Trần Văn H đề nghị bồi thường giá đất tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp hoặc giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

Như vậy, Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B được phê duyệt từ năm 2010, được triển khai thực hiện từ cuối năm 2011 nhưng mãi đến hơn hai năm sau là ngày 18/12/2014 Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T mới tiến hành giao quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ để tiến hành bồi thường cho ông Trần Văn H, do đó việc để kéo dài chậm thực hiện bồi thường cho ông Trần Văn H, dẫn đến ông Trần Văn H phải khiếu nại để yêu cầu giải quyết đồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm bồi thường là lỗi của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND huyện T, cho nên ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là hoàn toàn có cơ sở.

Trường hợp do địa phương không có quỹ đất để hoán đổi cho ông Trần Văn H thì phải xem xét điều chỉnh, tham mưu UBND tỉnh có phương án thẩm định lại giá đất để bồi thường cho người dân kịp thời, hạn chế gây thiệt hại cho người dân vì đây là trường hợp bồi thường chậm, lỗi thuộc về UBND thị xã T nhưng UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại khẳng định việc giải tỏa, bồi thường cho ông Trần Văn Hai là đúng quy định để né tránh trách nhiệm, gây bức xúc, làm giảm lòng tin của người dân và các cơ quan quản lý hành chính của địa phương, dẫn đến việc khiếu nại kéo dài.

Từ những nội dung trình bày trên cho thấy việc UBND thị xã T thực hiện bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là trái pháp luật nhưng Chủ tịch UBND huyện (nay là thị xã T), Chủ tịch UBND tỉnh B giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H tiếp tục khẳng định bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H đã đúng quy định pháp luật. Do đó, ông Trần Văn H khởi kiện Ủy ban nhân dân thị xã T đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, với yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Hủy quyết định 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương;

- Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Hủy Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Hủy Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Hủy Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

  • Hủy Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày A 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

*Ông Trần Văn H thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.

*Bà Hà Thị P thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H.

*Tại bản tường trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân thị xã T, Chủ tịch UBND thị xã T - ông Ngô Quang S trình bày:

  • Về cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục bồi thường công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh:

+ Ngày 20/9/2010, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 277/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 13/10/2011, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2998/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

+ Ngày 03/5/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc điều chỉnh Thông báo số 277/TB-UBND ngày 20/9/2010 của UBND huyện T về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 27/10/2011, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh tại xã K (nay là phường K).

+ Ngày 28/12/2011, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kiểm kê đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Trần Văn H và ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng (Một tỷ năm trăm mười tám triệu năm trăm mười lăm nghìn năm trăm năm mươi đồng).

+ Ngày 10/5/2012 và ngày 11/5/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai dự thảo Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc xã K). Đồng thời niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường K và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012 (có Biên bản làm việc).

+ Ngày 05/6/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kết thúc niêm yết công khai Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc phường K). Trong thời gian từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012.

+ Ngày 23/8/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P thường trú tại Khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

+ Ngày 03/10/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 9858/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương).

+ Ngày 10/10/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) niêm yết công khai Quyết định số 9858/QĐ- UBND về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương) tại trụ sở UBND K (nay là phường K) và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình.

- Về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P:

Ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có các thửa đất nằm trong công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh như sau:

+ Thửa đất số 160 diện tích trước khi thu hồi là 378m2 và thửa đất số 23 diện tích trước khi thu hồi là 1.113m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 04029 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 68 diện tích trước khi thu hồi là 1.728 m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất ONT+CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04041 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 337 diện tích trước khi thu hồi là 2.557 m2 tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04040 ngày 04/8/2008.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND thu hồi diện tích 2028,2 m2 thuộc một phần thửa đất số 160, 337, 68, 23 tờ bản đồ số 33 tại xã Khánh Bình của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, thường trú tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh, loại đất thu hồi là CLN: 2028,2 m2.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K đã lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Tài sản gắn liền với đất trong phạm vi giải tỏa có 04 cây xà cừ (đường kính > 20) đã được kiểm kê trong Biên bản kiểm kê số 316/BBKK ngày 28/12/2011 của Trung tâm Phát triển quỹ đất.

Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P như sau:

+ Bồi thường về đất CLN: 2028,2 m2 x 168.000 đ/m2 = 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ đất nắn tuyến: 103 m2 x 941.850 đ/m2 = 97.010.550 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=70%): 521,5m2 x 941.850 đ/m2 = 491.174.775 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=50%): 875,5 m2 x 672.750 đ/m2 = 588.992.625 đồng

+ Cây trồng trên đất: 600.000 đồng

=> Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng

Ngày 16/10/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng. Trong đó:

+ Bồi thường về đất: 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ về đất: 1.177.177.950 đồng

+ Cây cối: 600.000 đồng

Ngày 18/12/2014, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H.

Ngày 21/3/2016, UBND thị xã T ban hành Thông báo số 187/TB-UBND ngày 21/3/2016 về việc nhận tiền bồi thường và bàn giao đất thu hồi. Ngày 24/3/2016, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp UBND phường K công bố và bàn giao Thông báo trên cho ông Trần Văn H. Kết quả ông H đã nhận thông báo nhưng không đồng ý giá bồi thường, đang khiếu nại tại UBND tỉnh, yêu cầu gặp Chủ tịch UBND thị xã đối thoại.

- Về quá trình giải quyết đơn kiến nghị:

Ngày 24/12/2014, ông Trần Văn H làm đơn kiến nghị xem xét việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông bị thu hồi theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 thuộc Công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

Ngày 29/5/2015, UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND-TD về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H, cụ thể như sau:

+ Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông, trong khi quyết định có ghi rõ ông có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao Quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại: Khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận Quyết định số 10492/QĐ- UBND (ngày 18/12/2014).

+ Về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 46 và điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp dân công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai Phương án bồi thường (có biên bản họp dân, biên bản công khai).

+ Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại phương án bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì Phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ- UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong Phương án bồi thường được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường: “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm ”.

+ Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định: Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Như vậy, việc bồi thường, hỗ trợ đối với diện 2899,2m2 đất bị thu hồi của ông Trần Văn Hai là đúng theo quy định.

Ngày 6/9/2016, UBND thị xã T tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H về một số nội dung liên quan đến công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B. Kết quả yêu cầu ông Trần Văn H gửi đơn tại Ban Tiếp công dân thị xã để được viết biên nhận và giải quyết theo quy định.

Ngày 18/11/2016, Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H. Kết quả đối thoại ông Trần Văn H không đồng ý các Quyết định thu hồi đất, Quyết định cũ đã ban hành trước dây, tôi chỉ đồng ý nhận các Quyết định mới ban hành năm 2015. Nếu không ban hành các Quyết định mới năm 2015, yêu cầu sớm ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để ông có quyền khiếu nại lên cấp có thẩm quyền.

Ngày 30/12/2016, Chủ tịch UBND thị xã ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lầu đầu), với nội dung:

+ Bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với việc xem xét hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T; xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao Quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

+ Giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T.

Ngày 17/02/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 371/QĐ- UBND về việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại, trong đó giao Thanh tra tỉnh xác minh làm rõ nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 09/3/2017 và ngày 17/4/2017, Thanh tra tỉnh tổ chức làm việc với UBND thị xã T về một số vấn đề liên quan đến nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn của ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T (lần hai).

Từ những căn cứ và nội dung nêu trên, cho thấy việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là đúng theo phương án bồi thường đã được phê duyệt và đúng theo quy định, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 là đúng quy định của pháp luật. Do đó, UBND thị xã đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B xem xét, giải quyết vụ án theo quy định.

*Tại bản giải trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B là ông Mai Hùng D - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:

Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ- UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện Tân Uyên phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012.

Ngày 20/9/2011, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án tỉnh lộ ĐT747B đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

Ngày 28/12/2011, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T (nay Chi nhánh Trung tâm Phát triển Quỹ đất thị xã T) tiến hành kiểm kê đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Trần Văn H (Biên bản kiểm kê số 316/BBKK).

Ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T lập Biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H (Bảng áp giá số 61/TTPTQĐ-KT). Trên cơ sở đó, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 1.518.515.550 đồng, trong đó:

+ Thửa đất số 160: Diện tích thu hồi 292m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 49.056.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 37m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 34.848.450 đồng.

+ Thửa đất số 23: Diện tích thu hồi 355m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 59.640.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 66m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 62.162.100 đồng.

+ Thửa đất số 337: Diện tích thu hồi 859,7m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 144.429.600 đồng.

+ Thửa đất số 68: Diện tích thu hồi 521,5m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 87.612.000 đồng, hỗ trợ đất nông nghiệp do trong cùng thửa đất có nhà ở là: 521,5m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 491.174.775 đồng.

+ Phần diện tích đất nông nghiệp còn lại được hỗ trợ: 875,5m2 x 672.750 đồng/m2 (50% x 1.345.500 đồng/m2) = 588.992.625 đồng.

+ Bồi thường cây trái, hoa màu trên đất: 600.000 đồng.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi, kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 16/10/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ- UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng.

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT- lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Ngày 15/12/2014, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T mời hộ ông Trần Văn H đến nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Ngày 18/12/2014, hộ ông Trần Văn H có đến làm việc theo thư mời nhưng gia đình ông H không đồng ý nhận tiền bồi thường và các chính sách hỗ trợ.

Không đồng ý với kết quả áp giá bồi thường, hỗ trợ, ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của Chủ tịch UBND huyện T và yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, bồi thường 2028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương.

- Việc Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì:

Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ (quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư); theo đó, tại Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố, bàn giao quyết định thu hồi đất (lần 1 ngày 19/9/2012; lần 2 ngày 19/10/2012), nhưng cả 02 lần ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND xã K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

- Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2.028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số A9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong Phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

- Căn cứ Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ, quy định: “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất...”; đối chiếu quy định trên, thì Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T thực hiện đúng quy định và áp giá bồi thường theo đơn giá được phê duyệt năm 2012 (cùng thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất).

Từ những nội dung trên, việc Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T, là đúng quy định pháp luật.

Đến nay, Chủ tịch UBND tỉnh B vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017. Đồng thời, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên xử bác đơn khởi kiện của ông Trần Văn H; công nhận nội dung Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh là đúng theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H đối với yêu cầu: Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1); Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 23/7/2018 người khởi kiện ông Trần Văn H kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.

Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm hôm nay người khởi kiện ông Trần Văn H đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm hủy các Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B.

Người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh B, UBND thị xã T và Chủ tịch UBND thị xã T vắng mặt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện cho rằng các quyết định thu hồi đất có sai sót về trình tự thủ tục ban hành; các quyết định phê duyệt phương án bồi thường và bồi thường, các quyết định giải quyết khiếu nại là trái quy định bởi vì hai quyết định này được ban hành từ năm 2012 nhưng đến năm 2014 mới giao cho ông H nhưng lại áp giá năm 2012. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện sửa bản án sơ thẩm và hủy các quyết định nói trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2]. Người khởi kiện ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án:

  • Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.
  • Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất.
  • Hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
  • Hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn Hai.

- Hủy Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1).

- Hủy Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

[3]. Xét thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành các quyết định bị khiếu kiện: Căn cứ khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 126, Điều 127 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì các quyết định nói trên được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

[4]. Về nội dung:

[5]. Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện T phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 có kèm theo phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư. Ngày 13/8/2012 Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên lập biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H.

[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn Hai. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ- UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa nhận được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[8]. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ- CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT- BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

[9]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất mới công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương cho ông Trần Văn H. Lý do sau hai năm mới triển khai quyết định bồi thường theo Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Như vậy việc ông Trần Văn H không được nhận bồi thường tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất số 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T không phải lỗi từ phía ông H mà lỗi từ cơ quan chủ quản như đã nêu trên.

[10]. Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2899,2m2 của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên ông Trần Văn H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

[11]. Ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND- TD trả lời đơn của ông Trần Văn H, cho rằng Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2899,2m2 đất của ông Trần Văn H bị thu hồi là đúng trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường.

[12]. Không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015, ông Trần Văn H tiếp tục khiếu nại đến UBND thị xã T yêu cầu hủy bỏ Công văn số 3131/UBND-TD, đồng thời yêu cầu UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng quy định của pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

[13]. Ngày 30/12/2015 Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T.

[14]. Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 11/10/2017 ông Trần Văn H khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

[15]. Tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, với nội dung:

[16]. Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên trong trường hợp này, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên không “gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” đến ông Trần Văn H là người có đất bị thu hồi mà chỉ mời ông H đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi” và khoản 2 Điều 93 quy định “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Như vậy có căn cứ pháp lý để xem xét xác định việc ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định như trên là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H.

[17] Từ các nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án sơ thẩm hủy các quyết định về thu hồi đất, về phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư và quyết định giải quyết khiếu nại, giao cho UBND thị xã T giải quyết lại.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều: 30, 32, khoản 2 Điều 79, 116, 134, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 164, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 41, 42 của Luật Đất đai năm 2003; khoản 2, Điều 14, Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ; khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm. Hủy các Quyết định hành chính sau đây của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương:

- Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

- Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

2. Về án phí:

- Án phí hành chính sơ thẩm:

Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm, hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010852 ngày 29/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B; Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.

- Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0026781 ngày 25/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ tuyên án.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ-UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

(Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương).

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án án hành chính liên quan đến việc bồi thường khi thu hồi đất hiện nay có rất nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng lại chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Do đó, khi công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, dẫn đến khiếu kiện hành chính.

Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm”.

Trong vụ án này, UBND huyện T ban hành các Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất từ năm tháng 8/2012. Tuy nhiên, do không có kinh phí để chi trả bồi thường nên đến tháng 12/2014 thì UBND huyện T mới công bố và giao Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất, dẫn đến giá đất được bồi thường tại thời điểm ra quyết định thu hồi và thời điểm công bố và giao quyết định cho người bị thu hồi đất có sự chênh lệch lớn. Người khởi kiện là người bị thu hồi đất yêu cầu được bồi thường theo giá đất tại thời điểm nhận quyết định thu hồi. Trường hợp này, Tòa án xác định lỗi chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất là thuộc cơ quan có thẩm quyền nên đã xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học thấy rằng đây là tình huống vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, người bị thu hồi đất khiếu nại các Quyết định hành chính theo thủ tục hành chính thường không được chấp nhận. Do đó, khi người bị thu hồi đất khởi kiện hành chính thì giải pháp mà Tòa án đưa ra trong bản này là xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất. Tình huống này có thể thể xem xét phát triển án lệ để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự.

Nguồn Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)

[1] Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.

Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để làm đẹp văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như người giữ hòa khí để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?

Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.

Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là good faith trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc nguyên tắc trung thực, thiện chí ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.

Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.

Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?

Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.

Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.

Tại sao thiện chí lại quan trọng?

Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.

Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế

Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.

Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.

Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.

Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp

Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.

Nhưng thiện chí có giới hạn không?

Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.

Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta

Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.

Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong những câu chuyện đời thường

Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.

Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.

Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.

Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?

Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:

  1. Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
  2. Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
  3. Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.

Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.

Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời

Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.

Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

- Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

(nguồn: anle.toaan.gov.vn)