cơ sở dữ liệu pháp lý

Quyết định giám đốc thẩm về việc chọn mốc thời hiệu khởi kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

http://caselaw.vn/ban-an/Ku6rOsWTfY

Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp sở hữu trí tuệ

  • Loại bản án: Giám đốc thẩm
  • Cơ quan xét xử: Hội đồng thẩm phán TANDTC
  • Số hiệu: 06/2015/KDTM-GĐT
  • Ngày tuyên án: 17-04-2015
  • Số hiệu bản án bị Giám đốc thẩm: 10/2010/KDTM-PT
  • Ngày tuyên án bị Giám đốc thẩm: 25/11/2010

Mô tả tóm lược:

Đầu năm 2003, ông NĐ_Thanh phát hiện ông BĐ_Nguyễn Đình Minh và bà BĐ_Thái Thị Thu Sinh - Chủ cơ sở cơ khí Đình Mỹ chế tạo và mang bán trên trên thị trường loại máy đùn gạch có trục cào mà ông NĐ_Thanh đã được nhà nước bảo hộ độc quyền theo văn bằng bảo hộ “Bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 319”; thời hạn hiệu lực đến ngày 20/8/2011 cấp bởi Cục Sở hữu trí tuệ ngày ngày 20/12/2002.

Ông NĐ_Thanh nhiều lần làm đơn trình báo lên Ủy ban nhân dân huyện KA về hành vi vi phạm này. Ông còn gửi văn bản thông báo cho ông BĐ_Minh đề nghị chấm dứt hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời có đơn gửi Sở khoa học và Công nghệ tỉnh ĐL và Ủy ban nhân dân huyện KA đề nghị giải quyết. Ngày 31/12/2007, Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh ĐL đã lập Biên bản vi phạm hành chính về chất lượng, sở hữu trí tuệ và nhãn hiệu hàng hóa số 01/BBVP-Tra đổi với Cơ sở gạch Việt Mỹ do ông BĐ_Nguyễn Đình Minh làm chủ cơ sở, có địa chỉ tại BM, xã EB, huyện KA, tỉnh ĐL do có hành vi “sử dụng máy đùn gạch có gắn trục cào vi phạm tại Bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 319 do ông NĐ_Hoàng Thanh làm chủ sở hữu.

Đến ngày 24/3/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh ĐL mới có văn bản chuyển hồ sơ vụ kiện cho Tòa án giải quyết nên ngày 14/5/2008, ông NĐ_Hoàng Thanh mới có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh ĐL.

Yêu cầu của Nguyên đơn

Tại phiên tòa sơ thẩm lần 2 ngày 17/6/2011, ông NĐ_Thanh chỉ yêu cầu bồi thường đổi với hành vi sử dụng máy đùn gạch với tổng số tiền là 412.000.000 đồng (bồi thường cho hành vi sử dụng máy đùn gạch có trục cào + chi phí luật sư) theo như bản án sơ thẩm lần thứ nhất của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL.

Phán quyết của Tòa sơ thẩm lần 1:

Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.

Phán quyết của Tòa phúc lần 1:

Hủy án sơ thẩm để xét xử lại

Phán quyết của Tòa sơ thẩm lần 2:

Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 59/2011/QĐST-KDTM ngày 19/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh ĐL đã đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo

Phán quyết của Tòa phúc lần 2:

Giữ nguyên đình chỉ giải quyết vụ án số 59/2011/QĐST-KDTM ngày 19/7/2011

Quyết định giám đốc thẩm:

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng khi ông NĐ_Hoàng Thanh khởi kiện, thì thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết, từ đó ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án là không đúng. Cụ thể: 

Theo quy định tại điểm a.6 tiểu mục 2 Mục IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì “Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng”.

-  Ông NĐ_Hoàng Thanh phát hiện ông BĐ_Nguyễn Đình Minh - Chủ cơ sở sản xuất gạch Việt Mỹ và bà BĐ_Thái Thị Thu Sinh - Chủ Cơ sở sản xuất cơ khí Đình Mỹ vi phạm bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 319 của ông từ năm 2003;

-  Đến ngày 31/12/2007, Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh ĐL vẫn phát hiện Cơ sở sản xuất gạch Việt Mỹ có hành vi sử dụng máy đùn gạch có gắn trục cào mà Cục sở hữu trí tuệ đã cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 319 cho ông NĐ_Thanh (hành vi xâm phạm) và đã lập Biên bản vi phạm hành chính về chất lượng, sở hữu trí tuệ và nhãn hàng hóa đổi với cơ sở sản xuất gạch Việt Mỹ

Nên ngày 31/12/2007 được coi là thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng và thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 31/12/2007. Ngày 14/5/2008, ông NĐ_Hoàng Thanh có đơn khởi kiện vụ án tại Tòa án là trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.

THÔNG BÁO: TẠM DỪNG TIẾP NHẬN KHAI HẢI QUAN TỪ 23H00 NGÀY 14/3/2025 ĐẾN 05H00 NGÀY 15/3/2025

Cục Hải quan – Bộ Tài chính vừa ban hành Thông báo số 130/CHQ-CNTT ngày 13/3/2025, thông báo về việc tạm dừng tiếp nhận khai hải quan trong khoảng thời gian từ 23h00 ngày 14/3/2025 đến 05h00 ngày 15/3/2025.

Nguyên nhân tạm dừng tiếp nhận khai hải quan

Cục Hải quan đang triển khai hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) mới, phù hợp với mô hình tổ chức được quy định tại Nghị định 29/2025/NĐ-CP của Chính phủ. Việc nâng cấp này nhằm cải thiện hiệu suất xử lý khai báo hải quan, tối ưu quy trình số hóa và nâng cao chất lượng phục vụ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Đối tượng bị ảnh hưởng & khuyến nghị cho doanh nghiệp

Các doanh nghiệp forwarder, logistics, xuất nhập khẩu cần đặc biệt lưu ý để tránh gián đoạn quy trình khai báo hàng hóa. Cục Hải quan khuyến nghị các đơn vị chủ động sắp xếp thời gian nộp tờ khai trước hoặc sau khung giờ nâng cấp hệ thống để đảm bảo tiến độ giao nhận hàng hóa.

Các đơn vị nhận thông báo chính thức

  • Kho bạc Nhà nước
  • Cục Thuế
  • Cục CNTT và Chuyển đổi số – Bộ Tài chính
  • Cảng vụ Đường thủy nội địa Hải Phòng
  • Các ngân hàng thương mại

Thông tin quan trọng này sẽ ảnh hưởng đến quá trình khai báo hải quan và thông quan hàng hóa. Forwarder, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần theo dõi sát sao để chủ động điều chỉnh kế hoạch vận hành.

Nghị quyết 42 phiên bản nâng cấp: Cơ hội mới cho ngân hàng trong xử lý nợ xấu

Trong một hội nghị gần đây, Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của NHNN về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024.

Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo là việc luật hóa một số quy định từ Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Trước đó, Nghị quyết 42 đã được gia hạn đến hết năm 2023 và nay đã hết hiệu lực. Điểm đáng chú ý của nghị quyết này là cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu.

Phiên bản nâng cấp của Nghị quyết 42, sau khi được luật hóa, sẽ mang lại cơ chế pháp lý chặt chẽ hơn, giúp ngân hàng có thêm quyền trong việc thu giữ, xử lý và phát mại tài sản bảo đảm. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản đã có quyết định từ tòa án và đang trong giai đoạn thi hành án.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, dự kiến Chính phủ sẽ trình dự thảo lên Quốc hội trong kỳ họp tháng 5. Nếu chưa kịp, việc xem xét có thể chuyển sang kỳ họp vào tháng 9. Đây là tín hiệu tích cực cho các ngân hàng thương mại đang gặp khó khăn trong xử lý nợ xấu.

Hoàn thiện khung pháp lý để tháo gỡ khó khăn trong xử lý nợ xấu

NHNN, với vai trò là cơ quan soạn thảo, đã trình Chính phủ dự thảo từ đầu tháng 3. Theo NHNN, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý trong xử lý nợ xấu, giúp tháo gỡ những vướng mắc hiện nay, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.

Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là việc xử lý tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp, người nắm giữ tài sản không tự nguyện bàn giao, buộc tổ chức tín dụng phải tiến hành khởi kiện và chờ phán quyết từ tòa án, dẫn đến quá trình xử lý kéo dài. Hiện nay, pháp luật mới chỉ quy định quyền yêu cầu tòa án can thiệp khi tài sản không được bàn giao, nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền thu giữ trực tiếp của bên nhận bảo đảm. Điều này gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện thu giữ tài sản khi bên vay không hợp tác hoặc có hành vi trì hoãn.

Ngoài ra, một vấn đề khác là tài sản bảo đảm có thể bị kê biên để thi hành án cho các nghĩa vụ không liên quan đến khoản vay, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.

Dự thảo Luật sửa đổi đề xuất quy định rằng sau khi hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ và đảm bảo không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tố tụng có trách nhiệm hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự theo đề nghị của tổ chức tín dụng hoặc đơn vị xử lý nợ.

Tình hình nợ xấu và tác động của chính sách mới

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng niêm yết giảm còn 1,92%, giảm 0,31% so với quý III/2024 nhưng vẫn cao hơn 0,42% so với giai đoạn trước năm 2020.

Báo cáo tài chính quý IV/2024 của các ngân hàng cho thấy, tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tại 25 ngân hàng niêm yết lên tới 118.915 tỷ đồng (tương đương khoảng 4,75 tỷ USD), tăng 39,3% so với đầu năm. Tuy nhiên, con số này chưa bao gồm dữ liệu từ LPBank và VIB do hai ngân hàng này chỉ công bố số liệu về nợ quá hạn mà không chi tiết theo từng nhóm nợ.

Với các ngân hàng đã công bố báo cáo, có thể thấy nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ xấu. Một số ngân hàng thậm chí ghi nhận tỷ lệ nợ nhóm 5 lên tới hơn 90% tổng nợ xấu (bao gồm nợ nhóm 3 đến nhóm 5).

Việc nâng cấp Nghị quyết 42 thành luật không chỉ giúp ngân hàng xử lý nhanh hơn các khoản nợ xấu mà còn cải thiện tính thanh khoản và khả năng xoay vòng vốn, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý hơn.

Tác động của việc luật hóa Nghị quyết 42 đến hệ thống ngân hàng

Việc chuyển hóa Nghị quyết 42 thành luật chính thức sẽ có nhiều tác động quan trọng đối với hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Một trong những lợi ích lớn nhất là giúp đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, qua đó cải thiện chất lượng tài sản và nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, việc quy định rõ quyền thu giữ tài sản bảo đảm sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu tình trạng nợ xấu tồn đọng kéo dài. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng mà còn tạo ra một môi trường tài chính minh bạch, lành mạnh hơn, từ đó khuyến khích dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, để quá trình thực thi đạt hiệu quả cao nhất, các tổ chức tín dụng cần có kế hoạch triển khai phù hợp, bao gồm việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp lý, tòa án và cơ quan thi hành án để đảm bảo quá trình thu giữ và xử lý tài sản được thực hiện đúng pháp luật, tránh tranh chấp kéo dài.

Cơ hội và thách thức trong triển khai thực tế

Mặc dù việc luật hóa Nghị quyết 42 mang lại nhiều lợi ích, nhưng quá trình triển khai cũng sẽ đối mặt với không ít thách thức. Một trong những vấn đề đáng lo ngại là phản ứng từ các bên vay nợ khi ngân hàng được trao quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Nếu không có cơ chế giám sát chặt chẽ, có thể xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực hoặc vi phạm quyền lợi hợp pháp của người vay.

Bên cạnh đó, việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn phải tuân thủ quy trình tố tụng và thi hành án, do đó các ngân hàng cần có chiến lược xử lý hợp lý để tránh gây xung đột pháp lý. Đặc biệt, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm ngân hàng, cơ quan pháp lý và khách hàng để đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên được bảo vệ công bằng.

Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang chịu nhiều tác động từ biến động toàn cầu, các ngân hàng cần linh hoạt trong việc tái cơ cấu nợ và tìm kiếm các giải pháp xử lý phù hợp thay vì chỉ tập trung vào việc thu giữ tài sản. Việc kết hợp giữa các biện pháp thu hồi nợ hiệu quả và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, đồng thời duy trì sự ổn định của thị trường tài chính.

Kết luận

Việc luật hóa Nghị quyết 42 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm. Nếu được triển khai đúng cách, chính sách này không chỉ giúp giảm áp lực nợ xấu trong hệ thống ngân hàng mà còn góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi trong thực tế, các ngân hàng và cơ quan quản lý cần có những biện pháp đồng bộ nhằm kiểm soát rủi ro, tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Khi các vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ trở thành một giải pháp hiệu quả giúp hệ thống ngân hàng phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Nguồn: tổng hợp

Dự thảo án lệ số 21/2024 Về xác định mức lương để làm căn cứ bồi thường cho người lao động

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 211]

ÁN LỆ SỐ …./2024/AL

Về xác định mức lương để làm căn cứ bồi thường cho người lao động

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2023 và được công bố theo Quyết định số …. /QĐ-CA ngày tháng năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

 

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 05/2023/LĐ-GĐT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án lao động Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” giữa nguyên đơn là bà Chu Thị Thu H với bị đơn là Công ty TNHH B.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 1 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án l ệ :

Người lao động khởi kiện yêu cầu người sử dụng lao động bồi thường khi bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, hai bên không thống nhất được mức lương người lao động được hưởng.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Toà án phải căn cứ trên cơ sở mức lương người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động để làm căn cứ bồi thường cho người lao động.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 41, 96 Bộ luật Lao động năm 2019;

- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Từ khóa của án lệ:

“Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”; “Bồi thường”; “Mức lương đóng bảo hiểm xã hội”

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Chu Thị Thu H trình bày:

Bà Chu Thị Thu H và Công ty TNHH Nhuận B (sau đây gọi tắt là Công ty) có ký kết Hợp đồng lao động số 003 - HĐLĐ/2019 - AMC. Thời hạn hợp đồng là 03 năm (từ ngày 01/4/2019 đến 31/3/2022), công việc chuyên môn là Nhân sự, với mức lương 12.000.000đồng/ tháng.

Sau hơn 10 tháng làm việc, đến 15 giờ ngày 15/01/2020, H nhận được quyết định sa thải số 01/01-2020/QĐST của Công ty với lý do: Không biết tiếng Trung. Công ty báo trước 01 giờ 30 phút để bàn giao công việc.

Sau Tết nguyên đán, bà H đến Công ty xin nhận quyền lợi của mình nhưng bảo vệ Công ty không cho H vào và Công ty cũng không giải quyết quyền lợi cho bà H.

Bà H khởi kiện yêu cầu Công ty phải thanh toán cho bà các khoản sau:

  1. Hai tháng tiền lương để chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định là 24.000.000đồng (02 tháng x 12.000.000đồng/tháng).
  2. Bồi thường do vi phạm thời hạn báo trước 30 ngày là 12.000.000đồng/tháng x 30 ngày = 13.864.000đồng
  3. Tiền lương cho những ngày không được làm việc tính từ ngày 15/01/2020 đến hết thời hạn Hợp đồng ngày 31/3/2022 27 tháng x 12.000.000đồng/tháng = 324.000.000đồng
  4. Tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trong những ngày không được làm việc cho đến khi hết thời hạn hợp đồng lao động là 27 tháng: 12.000.000 đồng/ tháng x 27 tháng x 21.5% = 69.660.000đồng.
  5. Theo khoản 4 Điều 14 Nghị định số 05/2025/NĐ-CP thì công ty phải trả trợ cấp mất việc làm, trường hợp người lao động có thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động từ đủ 12 tháng trở lên (HĐLĐ của bà H thời hạn 36 tháng) ít nhất bằng 02 tháng tiền lương; 02 tháng x 12.000.000đồng/tháng = 24.000.000đồng.
  6. Thanh toán tiền lương tháng 13 năm 2019 (10/12 tháng) là 12.000.000đồng/tháng x 10 tháng = 10.000.000 đồng.
  7. Thanh toán lương tháng 01/2020: 14 ngày x 12.000.000đồng/tháng = 6.461.538 đồng.
  8. Thanh toán tiền phép năm theo HĐLĐ (36 ngày): 12.000.000đồng/ tháng: 26 ngày công x 36 ngày = 16.615.384 đồng.
  9. Tiền lãi do chậm thanh toán (Điều 96 Bộ luật Lao động năm 2012) Lương tháng 13/2019, phép năm 2019 và lương tháng 01/2020: 33.076.922 đồng x 6,0%/năm x 27 tháng = 4.465.384 đồng.
  10. Ngày công ốm đau hưởng BHXH, BHYT tính đến tháng 3/2020. Công ty không khai báo công ốm đau với BHXH: 12.000.000đồng/tháng: 24 ngày x 75% x 13 ngày = 4875.000đồng. Có chứng từ kèm theo giấy chứng nhận nghỉ hưởng BHXH.
  11. Bảo hiểm thất nghiệp (03 tháng): 12.000.000đồng/tháng x 60% x 3 tháng = 21.600.000đồng. Do công ty chậm chốt, chậm trả sổ BHXH nên bà H không tiến hành thủ tục hưởng BHTN (theo khoản 2, Điều 50 Luật Việc làm). Có chứng từ kèm theo quá trình đóng BHTN.
  12. Bà H không yêu cầu tiền khám chữa bệnh.

Tổng số tiền bà H yêu cầu Công ty phải bồi thường là: 519.541.306 đồng.

Bị đơn trình bày: Bà Chu Thị Thu H vào nộp hồ sơ xin việc và được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty TNHH Nhuận B vào ngày 11/3/2019, thử việc cho đến hết ngày 31/3/2019 đến ngày 01/4/2019 H với Công ty có ký hợp đồng lao động số 003 HĐLĐ/2019 với thời hạn 01 năm từ ngày 01/4/2019 đến ngày 31/3/2020, chức danh chuyên môn là nhân sự, không có chức vụ, mức lương cơ bản là 5.500.000đồng/tháng; trong thời gian làm việc tại Công ty, H làm việc cũng bình thường, không có gì xuất sắc và cũng không có sai phạm gì. Đến khi nghỉ Tết nguyên đán Canh Tý năm 2020 thì bà H có trình bày nguyện vọng là qua Tết sẽ chuyển chỗ làm khác không làm việc tại Công ty nữa và bà H có nộp đơn xin nghỉ việc bắt đầu từ ngày 05/02/2020 (là ngày Công ty bắt đầu làm việc lại sau khi nghỉ Tết), trên cơ sở đơn xin nghỉ việc của bà H, ngày 15/01/2020 Công ty đã ban hành quyết định cho thôi việc (sa thải) với bà H.

Sau khi nghỉ việc, Công ty có gọi nhưng không thấy bà H đến nhận lương tháng 01/2020 cũng như các giấy tờ có liên quan, Công ty có điện thoại mời bà H đến nhận lương nhiều lần nhưng bà cũng không đến, hiện nay Công ty còn giữ tiền lương tháng 01/2020 của bà H 3.953.692 đồng, số tiền này Công ty lúc nào cũng sẵn sàng trả cho bà H.

Là nhân viên nhân sự nên bà H có trách nhiệm lưu giữ các giấy tờ liên quan đến hồ sơ cá nhân của tất cả người lao động, trong đó có của cá nhân bà H và cả con dấu của Công ty sử dụng hàng ngày. Khi nhận được thông báo thụ lý, giấy triệu tập của Tòa án về việc bị bà H khởi kiện, Công ty vô cùng bất ngờ và kiểm tra lại hồ sơ thì không thấy đơn xin nghỉ việc của bà H (Công ty cho rằng bà đã lấy lại đơn xin nghỉ việc), hợp đồng lao động mà bà H cung cấp cho Tòa án cũng không đúng theo thông lệ của Công ty, có dấu hiệu của việc làm giả con dấu, tài liệu của Công ty vì tất cả các nhân viên Công ty sau thời gian thử việc đều được ký hợp đồng lao động với thời hạn 01 năm (không ai 03 năm), trong khi đó hợp đồng mà bà H cung cấp là có thời hạn 03 năm. Các chứng từ khác cũng không phù hợp vì khi công ty tuyển dụng bà H, Công ty đã biết bà H không biết tiếng Hoa nhưng vẫn tuyển dụng nên đó không thể là lý do Công ty sa thải bà H được.

Các giấy tờ bà H gửi cho Công ty khi khởi kiện đều là bản scan nên không thể xác định được chữ ký và con dấu trên những văn bản đó. Những bản chính đó (nếu có) cũng là do H tự trình Tổng giám đốc ký hồ sơ đã trà trộn vào để phục vụ cho ý định kiện tụng của bà sau khi nghỉ việc tại Công ty. Công ty đề nghị Tòa án cho trưng cầu giám định những chứng cứ mà bà H đã cung cấp, nếu chứng cứ không đúng đề nghị chuyển hồ sơ cho quan công an điều tra H về tội giả mạo con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. Vì những lý do nêu trên nên bị đơn không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 03/2021/LĐ-ST ngày 30/9/2021, Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chu Thị Thu H đối với bị đơn Công ty TNHH Nhuận B gồm các khoản:
    1. Tiền lương do vi phạm thời hạn báo trước là 30 ngày là: 13.864.000 đồng;
    2. Tiền bồi thường theo hợp đồng lao động từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2022 là 324.000.000 đồng;
    3. Thanh toán 02 tháng tiền lương để chấm dứt hợp đồng lao động là 24.000.000 đồng;
    4. Thanh toán tiền lương tháng 01/2020 còn lại là 6.461.538 đồng;
    5. Tiền trợ cấp mất việc làm 02 tháng (tháng 02/2020 và tháng 3/2020) là 24.000.000đồng;

Buộc Công ty TNHH Nhuận B có trách nhiệm thanh toán cho Chu Thị Thu H tổng cộng số tiền 392.325.538 đồng.

  1. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H đối với yêu cầu bị đơn thanh toán: Tiền lương tháng 13/2020 là 10.000.000đồng; tiền phép năm là 16.615.384 đồng; tiền BHXH, BHYT, BHTN trong thời gian từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2022 là 69.660.000đồng; tiền nghỉ ốm 24 ngày là 4.875.000đồng; tiền BHTN 03 tháng là 21.600.000đồng; tiền lãi do chậm thanh toán là 4.465.384 đồng.

Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 14/10/2020, Chu Thị Thu H có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận thêm các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về các nội dung: Thanh toán tiền lương tháng 13/2019 là 10.000.000đồng; tiền phép năm 2019 16.615.384 đồng; thanh toán trực tiếp tiền bảo hiểm xã hội cho H số tiền 69.660.000đồng; thanh toán tiền bảo hiểm thất nghiệp số tiền 21.600.000đồng; tiền lãi do chậm thanh toán lương là 4.465.384 đồng; tiền ngày công ốm đâu chưa hưởng BHXH 4.875.000 đồng và tiền khám chữa bệnh là 4.241.157 đồng, tổng cộng là 131.456.925 đồng.

Ngày 29/10/2021, người đại diện của Công ty TNHH Nhuận B là ông Trần Quang Tâm có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án lao động phúc thẩm số 02/2022/LĐ-PT ngày 28/3/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn. Sửa một phần bản án lao động sơ thẩm.

  1. Tuyên bố Quyết định số 01/01-2020/QĐST ngày 16/01/2020 của Công ty TNHH Nhuận B về việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà Chu Thị Thu H là trái pháp luật.
  2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị Thu H , buộc Công ty TNHH Nhuận B phải thanh toán cho Chu Thị Thu H các khoản sau:

- 02 tháng tiền lương theo hợp đồng là 13.600.000đồng;

- Tiền lương trong những ngày không được làm việc từ ngày 16/01/2020 đến ngày 30/3/2022 180.461.500 đồng;

- 02 tháng tiền lương để chấm dứt hợp đồng lao động: 13.600.000đồng;

- Tiền lương của tháng 01/2020 3.953.692 đồng.

Cộng các khoản nêu trên là 218.415.192 đồng.

  1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị Thu H về việc yêu cầu bị đơn thanh toán các khoản: Tiền lương tháng 13/2020 là 10.000.000đồng; tiền phép năm là 16.615.384 đồng; Tiền BNXH, BHYT, BHTN trong thời gian từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2022 là 69.660.000đồng; tiền nghỉ ốm 24 ngày là 4.875.000đồng; tiền BHTN 03 tháng là 21.600.000 đồng; tiền lãi do chậm thanh toán là 4.465.384 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, thi hành án.

Ngày 20/12/2022, Chu Thị Thu H có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án lao động phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 159/QĐ- VKS-LĐ ngày 13/7/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án lao động phúc thẩm số 02/2022/LĐ-PT ngày 28/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy Bản án lao động phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Ủy ban Thẩm phán chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

  1. Xét mức lương tính bồi thường: Các bên không thống nhất về mức lương bà H được nhận hàng tháng, bà H trình bày mức lương và phụ cấp hàng tháng bà nhận là 12.000.000 đồng nhưng bà không có chứng cứ chứng minh, các phiếu lương do H cung cấp không có chữ ký hay dấu xác nhận của đại diện Công ty. Phía Công ty không đồng ý với mức lương như bà H trình bày và cho rằng mức lương của bà H 5.500.000 đồng/tháng nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh. Theo tài liệu do Bảo hiểm xã hội huyện Bắc Tân Uyên cung cấp thì Công ty Nhuận Bằng đã đóng bảo hiểm xã hội cho H với mức lương và phụ cấp là 6.800.000 đồng (trong đó lương chính là 6.500.000đồng và phụ cấp 300.000đồng) nên Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng mức lương 6.800.000đồng/tháng làm cơ sở để tính các khoản bồi thường cho H là có căn cứ. Kháng nghị cho rằng cần lấy mức lương và các khoản phụ cấp khác của bà H là 12.000.000đồng theo hợp đồng lao động để làm căn cứ bồi thường là không chính xác. Bởi vì, hợp đồng lao động có ghi các khoản phụ cấp khác nhưng không diễn giải là các khoản phụ cấp gì và thực tế Công ty chỉ trả phụ cấp nguy hại cho H là 300.000 đồng và lương là 6.500.000đồng, tổng công là 6.800.000đồng.
  2. Kháng nghị nêu rằng Tòa án hai cấp không chấp nhận yêu cầu của bà H đối với các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là không đúng. Xét thấy, sau khi nghỉ việc tại Công ty Nhuận Bằng bà H chuyển sang làm việc và tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở nhiều công ty khác nhau và các công ty này đã đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho H. Theo quy định tại các điều 82, 83, 84, 85, 86 Bộ Luật lao động năm 2014 thì cả người lao động và người sử dụng lao động đều có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội trên số tiền lương hàng tháng và đóng trực tiếp cho quan bảo hiểm xã hội để nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Sau đó, cơ quan bảo hiểm xã hội sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động không có nghĩa vụ trả tiền cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trực tiếp cho người lao động. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà H về việc buộc Công ty phải thanh toán trực tiếp tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho bà H là đúng.
  3. Đối với tiền lương tháng 13 của năm 2019, tiền lãi chậm trả, tiền phép năm, ngày công ốm đau để hưởng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đã được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết là có cơ sở. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Điều 325; Điều 334; Điều 342; Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 159/QĐ- VKS-LĐ ngày 13/7/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bản án lao động phúc thẩm số 02/2022/LĐ-PT ngày 28/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc “Tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” giữa nguyên đơn là bà Chu Thị Thu H với bị đơn là Công ty TNHH Nhuận B tiếp tục có hiệu lực.

  1. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[1] Xét mức lương tính bồi thường: Các bên không thống nhất về mức lương bà H được nhận hàng tháng, bà H trình bày mức lương và phụ cấp hàng tháng bà nhận là 12.000.000 đồng nhưng bà không có chứng cứ chứng minh, các phiếu lương do H cung cấp không có chữ ký hay dấu xác nhận của đại diện Công ty. Phía Công ty không đồng ý với mức lương như bà H trình bày và cho rằng mức lương của bà H 5.500.000 đồng/tháng nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh. Theo tài liệu do Bảo hiểm xã hội huyện Bắc Tân Uyên cung cấp thì Công ty Nhuận Bằng đã đóng bảo hiểm xã hội cho H với mức lương và phụ cấp là 6.800.000 đồng (trong đó lương chính là 6.500.000đồng và phụ cấp 300.000đồng) nên Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng mức lương 6.800.000đồng/tháng làm cơ sở để tính các khoản bồi thường cho H là có căn cứ. Kháng nghị cho rằng cần lấy mức lương và các khoản phụ cấp khác của bà H là 12.000.000đồng theo hợp đồng lao động để làm căn cứ bồi thường là không chính xác. Bởi vì, hợp đồng lao động có ghi các khoản phụ cấp khác nhưng không diễn giải là các khoản phụ cấp gì và thực tế Công ty chỉ trả phụ cấp nguy hại cho H là 300.000 đồng và lương là 6.500.000đồng, tổng công là 6.800.000đồng.”

LÝ DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

Căn cứ quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019[2] thì trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền, căn cứ để tính mức bồi thường là trên cơ sở tiền lương theo hợp đồng lao động.

Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp vì lý do nào đó mà người lao động không thể cung cấp được hợp đồng lao động, mức lương người lao động đưa ra để làm căn cứ tính bồi thường không được người sử dụng lao động chấp nhận, người sử dụng lao động cũng không đưa ra được căn cứ xác định mức lương trả cho người lao động, hai bên không thống nhất được mức lương người lao động được hưởng. Trường hợp này Tòa án rất khó để có căn cứ xác định mức lương làm cơ sở để tính bồi thường cho người lao động.

Tại quyết định giám đốc thẩm nêu trên, Ủy ban Thẩm phán TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định: . Theo tài liệu do Bảo hiểm xã hội huyện Bắc Tân Uyên cung cấp thì Công ty Nhuận B đã đóng bảo hiểm xã hội cho bà H với mức lương và phụ cấp là 6.800.000 đồng (trong đó lương chính là 6.500.000đồng và phụ cấp 300.000đồng) nên Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng mức lương 6.800.000đồng/tháng làm cơ sở để tính các khoản bồi thường cho bà H là có căn cứ”. Theo đó, xác định trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không thống nhất được mức lương người lao động được hưởng thì Toà án căn cứ trên cơ sở mức lương người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động để làm căn cứ bồi thường khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.

Do đó, nhằm hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự thì việc phát triển án lệ về nội dung này là cần thiết.

 

[1] Dự thảo án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.

[2] Điều 41. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

  1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.

Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

  1. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
  2. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

Tư duy ngược: Nghĩ khác đi để tìm lối ra

Có bao giờ bạn thấy bế tắc khi cố gắng giải quyết một vấn đề mà nghĩ mãi không ra? Chẳng hạn, bạn muốn tiết kiệm tiền nhưng cứ mãi loay hoay với câu hỏi “Làm sao để kiếm thêm?”. Thế rồi, bạn thử nghĩ ngược lại: “Làm sao để tiêu ít đi?”. Bỗng nhiên, mọi thứ sáng tỏ hơn. Đó chính là sức mạnh của tư duy ngược – cách suy nghĩ “đi đường vòng” để tìm lối ra. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng bạn khám phá tư duy ngược là gì, nó hoạt động ra sao, và làm thế nào để áp dụng nó vào cuộc sống một cách đơn giản mà hiệu quả.

Tư duy ngược là gì? Nghĩ ngược mà không “ngược đời”

Tư duy ngược, nói đơn giản, là thay vì nghĩ theo cách thông thường từ A đến Z, bạn đi từ Z ngược về A. Thay vì hỏi “Làm sao để thành công?”, bạn thử hỏi “Làm sao để thất bại?”. Nghe lạ đúng không? Nhưng chính cái lạ này lại giúp ta nhìn vấn đề rõ hơn, vì ta buộc phải nhìn từ một góc khác.

Ví dụ nhé: Bạn muốn mở một quán cà phê đông khách. Cách nghĩ bình thường là “Mình cần pha cà phê ngon, trang trí đẹp, chọn chỗ đông người qua lại”. Nhưng nếu nghĩ ngược, bạn tự hỏi: “Làm sao để quán cà phê của mình ế khách???”. Câu trả lời có thể là: pha cà phê dở, thái độ phục vụ tệ, chọn chỗ vắng hoe, trang trí tồi tài, không quảng cáo gì cả. Khi biết những điều khiến quán ế, bạn chỉ cần làm ngược lại – thế là có công thức để quán đông!

Tư duy ngược không phải là để làm ta rối, mà là để bạn thấy những thứ mà cách nghĩ thông thường hay bỏ qua. Nó giống như khi ta đứng ở cuối con đường nhìn ngược về điểm xuất phát, thay vì cứ mò mẫm đi tới mà không rõ đích đến.

Tư duy ngược “hay ho” như thế nào?

Bình thường, bộ não của chúng ta thích đi theo lối mòn. Khi muốn giảm cân, ta nghĩ ngay: “Phải ăn kiêng, phải tập gym”. Nhưng nếu mãi không giảm được, ta mau chán. Thử nghĩ ngược xem: “Làm sao để mình tăng cân thật nhanh?”. Có thể ta sẽ liệt kê: ăn toàn đồ chiên xào, uống nước ngọt mỗi ngày, ngồi ì một chỗ không vận động. Vậy muốn giảm cân, ta chỉ cần tránh những thứ đó – đơn giản hơn nhiều so với việc ép mình theo chế độ khắc nghiệt.

Tư duy ngược hay ở chỗ nó giúp ta tìm ra nguyên nhân gốc rễ, thay vì chỉ loay hoay với hiện tượng bề mặt. Nó cũng làm ta bật cười vì sự “ngược đời” của mình, từ đó bớt căng thẳng khi đối mặt với vấn đề. Chẳng hạn, nếu ta đang lo lắng vì công việc quá tải, thay vì hỏi “Làm sao để làm hết việc?”, thử hỏi “Làm sao để mình chẳng làm được gì?”. Câu trả lời có thể là: ngủ nướng, lướt điện thoại cả ngày, không lên kế hoạch. Biết vậy, ta chỉ cần làm ngược lại – dậy sớm, tắt thông báo điện thoại, lập danh sách việc cần làm – thế là xong!

Một vài ví dụ rất “đời” cho tư duy ngược

Để dễ hình dung, ta cùng xem một vài câu chuyện thật gần gũi nhé.

Ví dụ 1: Chuyện cái tủ quần áo lộn xộn

Nhà bạn có cái tủ quần áo lúc nào cũng như bãi chiến trường không? Bạn muốn dọn mà không biết bắt đầu từ đâu. Cách nghĩ thông thường là: “Mình phải xếp từng cái áo, phân loại đồ mùa đông, mùa hè”, rồi “xếp quần áo đi làm riêng, quần áo đi chơi riêng, vân vân mây mây. Nhưng bạn thử nghĩ ngược: “Làm sao để tủ càng ngày càng rối?”. Đáp án dễ thôi: cứ tiện tay là nhét đại quần áo vào, không gấp, mua thêm đồ mới mà không bỏ cái cũ. Vậy muốn tủ gọn, bạn làm ngược lại: bỏ bớt đồ không mặc, gấp gọn từng cái, để trống chỗ cho tủ “thở”. Chỉ sau một buổi chiều, tủ bạn đã “sang” hẳn!

Ví dụ 2: Chuyện đi học muộn

Bạn hay đi học hoặc đi làm muộn, dù đã cố gắng dậy sớm? Thay vì hỏi “Làm sao để đi đúng giờ?”, thử nghĩ ngược: “Làm sao để mình muộn hẳn luôn?”. Có thể là: tắt báo thức, nằm ngủ nướng thêm 30 phút, chọn quần áo mãi không xong. Biết những “thủ phạm” này, bạn chỉ cần làm ngược lại: đặt báo thức xa giường, chuẩn bị đồ từ tối hôm trước, dậy là bật người ra khỏi giường. Đơn giản mà hiệu quả bất ngờ!

Ví dụ 3: Chuyện kinh doanh nhỏ

Giả sử bạn bán hàng online mà khách thưa dần. Bạn nghĩ: “Mình phải đăng bài nhiều hơn, giảm giá sâu hơn”. Nhưng thử nghĩ ngược: “Làm sao để không ai mua hàng của mình?”. Câu trả lời có thể là: trả lời tin nhắn chậm, giao hàng lâu, sản phẩm kém chất lượng. Vậy để khách quay lại, bạn cải thiện tốc độ trả lời, giao hàng nhanh, và đảm bảo hàng tốt. Khách tự khắc đông lên mà bạn không cần giảm giá quá nhiều.

Làm sao để tập tư duy ngược?

Nghe thì hay, nhưng làm sao để áp dụng tư duy ngược vào cuộc sống mà không thấy “khó chịu”? Đừng lo, đây là vài mẹo nhỏ:

  1. Hỏi câu ngược lại: Gặp vấn đề gì, cứ thử đặt câu hỏi ngược. Muốn ngủ ngon? Hỏi “Làm sao để mất ngủ?”. Muốn tiết kiệm? Hỏi “Làm sao để tiêu hết tiền?”. Từ đó, bạn sẽ thấy hướng đi rõ hơn.
  2. Viết ra giấy: Liệt kê những thứ “ngược đời” bạn nghĩ ra, rồi chọn cách làm ngược lại. Viết ra giúp bạn không bị rối.
  3. Thử với việc nhỏ trước: Đừng vội áp dụng vào chuyện lớn như đổi công việc. Bắt đầu từ việc đơn giản như dọn bàn làm việc hay lên kế hoạch ngày mới.

Ví dụ, bạn muốn tập thể dục đều đặn. Thay vì nghĩ “Làm sao để duy trì?”, hỏi “Làm sao để mình bỏ cuộc?”. Có thể là: chọn bài tập quá nặng, không có lịch cụ thể, tập một mình chán. Vậy bạn làm ngược lại: chọn bài nhẹ nhàng, đặt lịch cố định, rủ bạn tập cùng – thế là gắn bó được lâu!

Cho nên, hãy nghĩ ngược để sống xuôi

Tư duy ngược không phải là cách nghĩ kỳ quái để làm màu, mà là một “công cụ” đơn giản giúp ta nhìn vấn đề từ góc khác. Ta không cần phải thông minh vượt trội, chỉ cần chịu thay đổi cách hỏi một chút. Từ chuyện nhỏ như dọn nhà, đi học đúng giờ, đến chuyện lớn như kinh doanh hay quản lý cuộc sống, tư duy ngược đều có thể “gỡ rối” cho ta.

Lần tới khi bị bế tắc, đừng vội cáu kỉnh. Thử đứng ở “đích đến” nhìn ngược về, biết đâu ta sẽ thấy con đường ngắn hơn để đi. Cuộc sống vốn đã phức tạp, sao không thử nghĩ ngược một chút để mọi thứ “xuôi” hơn? Nghĩ khác đi, ta sẽ ngạc nhiên với những gì mình làm được đấy!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.

Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để làm đẹp văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như người giữ hòa khí để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?

Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.

Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là good faith trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc nguyên tắc trung thực, thiện chí ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.

Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.

Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?

Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.

Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.

Tại sao thiện chí lại quan trọng?

Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.

Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế

Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.

Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.

Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.

Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp

Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.

Nhưng thiện chí có giới hạn không?

Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.

Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta

Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.

Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong những câu chuyện đời thường

Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.

Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.

Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.

Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?

Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:

  1. Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
  2. Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
  3. Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.

Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.

Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời

Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.

Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

6. THĂNG TIẾN

Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

8. DANH TIẾNG

Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

9. PARTNER so với TBPC

Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

Chúc may mắn!