cơ sở dữ liệu pháp lý

Thống đốc: Đã có giải pháp huy động vàng, USD trong dân

Ngày 18/7, dẫn đầu Tổ công tác của Thủ tướng kiểm tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, Tổ trưởng Tổ công tác đã nêu rõ 6 vấn đề mà Thủ tướng yêu cầu NHNN giải trình, làm rõ, trong đó có việc nghiên cứu giải pháp huy động nguồn lực USD trong dân.

Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng và Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng tại buổi làm việc. - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thống đốc cho biết các giải pháp điều hành vĩ mô tổng thể những năm qua là rất trúng, nhờ đó nguồn lực ngoại tệ đã chuyển hóa thành VND. Chẳng hạn năm 2016, NHNN đã mua vào gần 10 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối, một phần lớn là từ ngoại tệ nắm giữ trong dân, qua đó chuyển thành đồng Việt Nam và được người dân đưa trực tiếp một phần vào sản xuất kinh doanh, phần khác gửi vào các ngân hàng thương mại.

“Chúng tôi cho rằng đây là giải pháp huy động nguồn lực tốt nhất trong điều kiện của chúng ta mà vẫn giữ được ổn định vĩ mô, không để những biến động ngoài tầm kiểm soát. Ngay cả với vàng, trong những năm qua chúng ta không mất ngoại tệ để nhập vàng, người dân cũng không đổ nguồn lực mua vàng như trước nữa, chuyển hóa nguồn lực vào nền kinh tế. Chúng tôi sẽ tiếp tục báo cáo Chính phủ các giải pháp cụ thể huy động các nguồn lực nhưng làm sao bảo đảm ổn định”, Thống đốc khẳng định.

Tín dụng có thể tăng 18-20%, rủi ro được kiểm soát rất chặt

Thống đốc cũng cho biết, vừa qua sau khi NHNN có quyết định thì nhiều ngân hàng đã giảm lãi suất 0,5% cho vay ngắn hạn với lĩnh vực ưu tiên. Nhiều ngân hàng đã áp dụng chương trình tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp với lãi suất 5-6,5%; sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay một số chương trình trung dài hạn với lĩnh vực ưu tiên xuống 8% và lãi suất cho vay ngắn hạn với khách hàng tốt từ 4-5%.

Đến ngày 30/6, tín dụng với nền kinh tế đã tăng 9,06%, cao hơn cùng kỳ 2015, 2016. Thống đốc khẳng định cơ cấu tín dụng chuyển dịch rất tốt, tập trung vào sản xuất kinh doanh, trong đó tín dụng cho một số ngành trọng điểm tăng cao hơn so với mức tăng chung như nông nghiệp nông thôn tăng 9,9%, công nghiệp tăng 10,34%. Những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát rất chặt thông qua giám sát, cảnh báo từ xa và kiểm tra tại chỗ.

“Tín dụng có thể tăng như chỉ đạo của Chính phủ là từ 18-20%, nhưng phải kiểm soát được ổn định vĩ mô, bảo đảm chất lượng tăng trưởng tín dụng, đưa tín dụng vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh, ưu tiên. NHNN sẽ linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến vĩ mô”, Thống đốc cho biết.  

Riêng với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, đến nay các ngân hàng đã cam kết cho vay 120 nghìn tỷ, giải ngân gần 33 nghìn tỷ. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm rất vướng liên quan tới thế chấp tài sản trên đất.

Về sở hữu chéo, trong dự thảo đề án cơ cấu lại tổ chức tín dụng, NHNN đã báo cáo rất rõ hiện trạng. Trong đó có trường hợp như Vietcombank hiện còn sở hữu cổ phần ở một số ngân hàng là để tạo thuận lợi cho tái cơ cấu các ngân hàng này, tuy nhiên vẫn phải thoái vốn theo quy định.

“Chúng tôi đã yêu cầu các ngân hàng khẩn trương thực hiện, chủ trương đã rất quyết liệt và rõ ràng, nhưng việc này phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan như tìm đối tác, giá thị trường…”, Thống đốc khẳng định.

NHNN đã trình Thủ tướng các giải pháp triển khai Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu, sau khi được phê duyệt, NHNN sẽ tổ chức hội nghị toàn quốc ngành ngân hàng để quán triệt. Đây sẽ là nhiệm vụ trọng tâm trong năm nay và những năm tới.

NHNN cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo đảm an toàn thanh toán và hoạt động của hệ thống ATM; cải cách thủ tục vay vốn…

Riêng với việc thực hiện Nghị định 67 về cho ngư dân vay đóng tàu, Thống đốc kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ NN&PTNT khẩn trương tổng kết việc thực hiện chủ trương rất đúng nhưng hiện có nhiều vướng mắc này. Còn NHNN đã báo cáo, kiến nghị đầy đủ về các bất cập và hướng xử lý.  

Tại buổi làm việc, lãnh đạo NHNN cũng nêu rõ nguyên nhân chậm trễ 5 nhiệm vụ trong tổng số 477 nhiệm vụ được giao tính từ đầu năm 2016 tới nay, gồm việc xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng tới năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; đề xuất tăng vốn điều lệ của Bảo hiểm tiền gửi; và 3 nhiệm vụ được giao trong các văn bản mật.

NHNN đang khẩn trương triển khai thực hiện và sẽ sớm báo cáo Chính phủ, Thủ tướng.

Sau buổi kiểm tra, NHNN sẽ có báo cáo đầy đủ, cụ thể với Tổ công tác về các vấn đề trên.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng phát biểu kết luận buổi kiểm tra. - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Dòng tiền đã hướng vào sản xuất

Phát biểu kết luận, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Mai Tiến Dũng cho biết buổi kiểm tra giúp đôn đốc các cơ quan thực hiện nghiêm nhiệm vụ được giao và phối hợp tốt hơn. Tổ công tác cũng nắm bắt, báo cáo Chính phủ tháo gỡ các vướng mắc về thể chế, trong đó nhiều vấn đề liên quan tới các bộ khác, không chỉ riêng NHNN mà làm được.

Tổ công tác đánh giá cao việc điều hành chính sách tiền tệ trong 6 tháng đầu năm của NHNN đã chủ động, linh hoạt, thành công, góp phần ổn định vĩ mô, tăng trưởng tín dụng hợp lý, cơ cấu dòng tiền tốt hơn, thực sự đi vào sản xuất kinh doanh, những lĩnh vực ưu tiên.

Đặc biệt, Tổ công tác đánh giá cao sự chia sẻ của các ngân hàng thương mại với quyết tâm tiết kiệm chi phí để hạ lãi suất, từ đó vướng mắc, kêu ca của doanh nghiệp trong tiếp cận tín dụng sẽ giảm đi.

Tuy nhiên, Thống đốc cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt để hoàn thành 80 nhiệm vụ còn lại chưa hoàn thành.

Ghi nhận những giải trình của Thống đốc về 6 vấn đề mà Thủ tướng yêu cầu, Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng yêu cầu NHNN có kế hoạch thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.

“Trong đó, nhiệm vụ số 1 vẫn là tăng trưởng tín dụng và hạ lãi suất, nhưng phải làm sao tăng đều qua các quý, không dồn toa vào cuối năm, tín dụng hướng vào sản xuất kinh doanh, vào doanh nghiệp khởi nghiệp, đầu tư hạ tầng, đồng thời vẫn kiểm soát được lạm phát, ổn định vĩ mô”, Tổ trưởng Tổ công tác nhấn mạnh. 

Cùng với đó, sớm báo cáo Thủ tướng các giải pháp thực hiện Nghị quyết về xử lý nợ xấu, giải tỏa cục máu đông trong 5 năm tới; đẩy mạnh tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, xử lý sở hữu chéo….

“Còn việc huy động nguồn lực trong dân rất quan trọng, Nghị quyết phiên họp Chính phủ vừa rồi cũng đã yêu cầu, NHNN phải tính toán cho hợp lý, đừng để tiền chảy ra nước ngoài”, Tổ trưởng Tổ công tác nêu rõ.

Tổ công tác sẽ tiếp thu toàn bộ các kiến nghị của NHNN và các ngân hàng thương mại, tổng hợp và báo cáo cụ thể Chính phủ, Thủ tướng, đặc biệt là những vướng mắc về chính sách, cơ sở pháp lý.

 Vướng mắc lớn nhất với gói 100.000 tỷ

Tại buổi làm việc, đại diện các ngân hàng thương mại lớn đã báo cáo các kết quả đạt được thời gian qua. Tuy nhiên, Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng đề nghị các ngân hàng tập trung làm rõ về các vướng mắc chính sách hiện hành.

Theo ông Trịnh Ngọc Khánh, Chủ tịch Agribank, vướng mắc lớn nhất hiện nay trong cho vay nông nghiệp công nghệ cao là tài sản thế chấp. Vì đầu tư cho lĩnh vực này rất lớn, có thể lên tới 30-40 tỷ đồng mỗi ha, nhưng các tài sản trên đất lại không được thế chấp vay vốn.

“Lúc được mùa thì các tài sản này rất giá trị, nhưng gặp thiên tai, mất mùa thì không đáng bao nhiêu, kể cả nhà máy tới 500 tỷ đồng nhưng mất mùa thì cũng thế”, ông Khánh giãi bày. 

Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết thêm về vướng mắc pháp lý này. Đó là tài sản trên đất thuê trả tiền hàng năm thì không được cấp giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, nên khi đưa ra thế chấp thì không được chấp nhận. Chính phủ đã đưa vấn đề này vào Nghị quyết, giao NHNN phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu tháo gỡ.

Ngoài ra, ông Khánh cũng kiến nghị một số vấn đề về thủ tục, chẳng hạn như theo quy định hiện hành, để kỷ luật nghỉ việc người lao động thì trong cả hệ thống Agribank chỉ duy nhất ông được phép ký, nhưng “với 40.000 lao động thì chỉ riêng việc ký này cũng đủ ốm”.

Một thông tin đáng chú ý khác, Tổng giám đốc Ngân hàng Công Thương Lê Đức Thọ cho biết hiện đang phối hợp với Sở Công Thương TPHCM tổ chức trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp tại các tỉnh phía Nam.

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.


Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:


Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.


Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

Các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (cập nhật đến tháng 12/2020)

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 8 nhóm sản phẩm với 94 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.


A) HÀNG HÓA XUẤT XỨ TỪ TRUNG QUỐC

1) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


2) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 9,05%~23,71%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


3) Nhóm sản phẩm Nhôm, hợp kim hoặc không hợp kim, dạng thanh, que và hình (tiếng Anh: Aluminum, alloy or nonalloy which are in bar, stick and shape form)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,49%~35,58%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 9 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 2942/QĐ-BCT ngày 28/09/2019 Áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm nhôm có xuất xứ từ Trung Hoa


4) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,53%~34,27%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


5) Nhóm sản phẩm Thép hình chữ H (tiếng Anh: H-shaped steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn Rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 19,30%~29,17%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3024/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép hình chữ H


6) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3,17%~38,34%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


7) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


8) Nhóm sản phẩm Thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,43%~25,52%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 10 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bảnQuyết định số 3390/QĐ-BCT ngày 21/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm có xuất xứ từ Trung Hoa


B) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ ĐÀI LOAN:

9) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: 37,29%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 209 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


C) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ THÁI LAN

10) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,30%~20,35%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


D) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ HÀN QUỐC

11) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,71%~19,25%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


12) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 7,02%~19,00%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


F) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ INDONESIA

13) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


14) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 10,91%~25,06%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


I) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ MALAYSIA

15) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 18,87%~23,42%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a  


16) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan

Một số chia sẻ hữu ích về các vấn đề liên quan đến học luật, hành nghề luật

1. Để gia tăng cơ hội về việc làm khi ra trường, sinh viên nên:

(i) nắm vững các kiến thức cơ bản về pháp lý, ví dụ như hiểu được hệ thống văn bản pháp luật, phân biệt được văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật, tra cứu văn bản, xác định đúng luật, quy phạm pháp luật áp dụng và phân tích được quy định đó;

(ii) trau dồi các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, làm việc với cơ quan nhà nước;

(iii) rèn giũa tính cẩn thận;

(iv) rèn luyện kỹ năng research, phân tích.

(v) thành thạo kỹ năng office (Word – thuần thục; Excel và Powerpoint có thể ở mức cơ bản). Đối với word, các bạn cần nắm rõ các kỹ năng nâng cao như trackchange, compare, tạo table of content, cross-reference, headings, …

(vi) chuẩn bị tiếng anh tốt; nếu giỏi cả 4 kỹ năng thì quá tốt, còn không, hãy cố gắng thành thạo trong kỹ năng đọc và viết. Bạn sẽ được yêu cầu đọc tài liệu bằng tiếng Anh, viết các thư tư vấn, phân tích pháp lý bằng tiếng Anh trong công việc. Ngoài ra, bạn sẽ được yêu cầu dịch các tài liệu từ Anh sang Việt và ngược lạị.

2. Những yếu tố cần thiết khi bắt đầu làm ở một Công ty Luật là gì?

Với 1 fresher, có một số yếu tố cần thiết để làm việc tốt ở 1 law firm:

(i) Tinh thần và khả năng tự học hỏi: Cường độ và tốc độ công việc ở law firm khá khắc nghiệt, vì vậy để có một người cầm tay chỉ việc cho em sẽ là không có. Em sẽ cần tối đa khả năng tự học hỏi của mình, từ quan sát, từ rút kinh nghiệm những feedback của supervisor;

(ii) Sẵn sàng chịu áp lực từ khối lượng công việc lớn: chắc mọi người đều hiểu áp lực công việc của law firm là thế nào. Hãy chuẩn bị trước tinh thần làm việc overtime, over the weekend or even over-night;

(iii) tư duy phản biện: nôm na là tư duy từ cả 2 phía, hay còn gọi là critical thinking. Không nhìn từ một phía để đánh giá 1 vấn đề; và 

(iv) Tiếng anh ở mức khá, nếu làm việc ở law firm lớn.

3. Những điều nên và không nên làm khi nhận và xử lý công việc từ cấp trên:

Đối với công việc từ cấp trên, việc đầu tiên bạn cần thể hiện là thái độ cầu thị và nghiêm túc khi nhận yêu cầu công việc. Khi bạn nghe qua không rõ hoặc chưa hiểu vấn đề nào, nếu cấp trên đang có thời gian rảnh, bạn có thể trao đổi trực tiếp. Nếu công việc đang gấp, bạn có thể nghiên cứu trước và vạch ra những câu hỏi cần trao đổi với cấp trên để hoàn thành công việc. Tất nhiên với mỗi người cấp trên có cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, và tư duy của bạn rất quan trọng, nhưng thái độ cầu thị và ham học hỏi thường sẽ là thang đánh giá của cấp trên đối với những bạn vừa ra trường đi làm. Mặt khác, em có thể trực tiếp hỏi xin thêm việc để được tham gia vào nhiều công việc khác nhau (tất nhiên là vẫn đảm bảo không ảnh hưởng đến deadlines những công việc khác). 

Liên quan đến deadline, bạn nên hỏi rõ về timeline. Bạn cần biết rõ khi nào cần báo cáo kết quả và liệu timeline đó có khả thi với bạn không. Nếu không, bạn cần nói rõ với cấp trên để xem xét dời deadline. Tuyệt đối không được nhận khi biết mình không thể hoàn thành đúng deadline, điều này sẽ gây khó khăn cho cấp trên và có thể làm lỡ việc với khách hàng. Nếu giữa chừng bạn cảm thấy không thể đúng hạn, bạn cần thảo luận lại với cấp trên để có hướng xử lý. Không nên im lặng rồi sau đó trễ deadline.

4. Trong quá trình hành nghề luật bắt đầu từ vị trí paralegal đến khi thành associate, anh chị đã gặp những khó khăn nào?

Trong giai đoạn đầu khi đi từ fresh graduate đến khi trở thành mid level, ai cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và mỗi môi trường công ty có những khó khăn đặc thù nhất định. Tuy nhiên, bạn hãy hiểu rằng mỗi khó khăn như vậy là một bài học để bạn phát triển bản thân mình. Có một thực tế là kinh nghiệm và kỹ năng tích lũy được sau mỗi lần gặp sai lầm và sửa chữa sẽ nhiều hơn là áp dụng một công thức duy nhất để làm cho xong việc. 

Một điều nữa mình muốn chia sẻ là mới đi làm và trong giai đoạn học hỏi kinh nghiệm trong nghề luật thì tuyệt đối không ngại việc và không ngại rắc rối. Hãy nghĩ rằng nghề luật sư chính là mua rắc rối của khách hàng vào mình để giải quyết, nên bản thân bạn cần giữ thái độ bình tĩnh với các rắc rối và luôn tin rằng sẽ có cách giải quyết cho mọi vấn đề.

Mỗi người có mỗi trải nghiệm khác nhau, tuy nhiên đối với nghề luật sư, theo mình, kim chỉ nam là “Tư duy và giải pháp”. Tư duy là thứ em sẽ cần để nhìn nhận và xác định vấn đề, đồng thời luôn cố gắng tìm ra giải pháp cho khách hàng, đừng chỉ đưa văn bản pháp luật mà không có bất kỳ một kết luận hay giải pháp nào. Thứ khách hàng nhìn vào hầu như chỉ là câu kết luận và giải pháp mà em cung cấp cho họ. 

(Tác giả: Luật sư Trần Viết Quân - http://vietnamlawmentor.com)

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp


Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất


Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)


Hợp Đồng Cho Mượn Đất


HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)


HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)


HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

Quyết định 199/QĐ-CA về việc công bố án lệ

Ngày 17/10/2018, Hội Đồng Thẩm Phán TAND Tối Cao đã công bố thêm 11 án lệ mới theo Quyết định số 199/QĐ-CA về việc công bố án lệ, bao gồm: 4 án lệ về hình sự; 1 án lệ về lao động; 6 án lệ về Dân sự và Kinh doanh thương mại. Như vậy, tính đến hết năm 2018, đã có tất cả 27 án lệ được công bố tại Việt Nam. Caselaw Việt Nam đang cập nội dung án lệ đính kèm văn bản. 

Xem thêm: Tuyển tập 20 dự thảo án lệ năm 2018 tại: https://caselaw.vn/tong-hop-ban-an/tuyen-tap-20-du-thao-an-le-nam-2018


Tóm tắt nội dung các án lệ mới vừa được công bố gồm:

1. Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” đối với người giúp sức trong tội “Giết người” .

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 07/2018/HS-GĐT ngày 20-3-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1977; trú tại phố A, thị trấn C, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế (Ngoài ra trong vụ án này còn có các bị cáo Trần Quang V, Phạm Nhật T bị kết án về tội “Giết người”; Dương Quang L bị kết án về tội “Che giấu tội phạm”).  Bị hại: Ông Dương Quang Q.

2. Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”.

Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 331/2018/HS-PT ngày 28-5-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Phan Thành H, tên gọi khác: Đ; sinh ngày: 02-2-1995; nơi đăng ký HKTT: Xã C, huyện D, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Định.  Bị hại: Anh Nguyễn Anh Đ.

3. Án lệ số 19/2018/AL về tình tiết phạm tội “có tổ chức” trong tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 10/2013/HS-GĐT ngày 22-7-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với các bị cáo: (1) Phan Chí L sinh năm 1950; trú tại khu phố B, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị.(2) Nguyễn Thị H sinh năm 1959; trú tại khu phố B, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Bị hại: có 30 người bị hại, trú tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa.

4. Án lệ số 20/2018/AL về xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong “Tội tham ô tài sản”

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 09/2015/HS-GĐT ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tham ô tài sản” đối với bị cáo: Võ Thị Ánh N, sinh năm 1981; trú tại số 17, đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Bình Định. Ngoài ra, trong vụ án còn có Phan Thị Q bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Võ Thị Kim T bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”.

5. Án lệ số 21/2018/AL về xác lập quan hệ hợp đồng lao động theo loại hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc trong thư mời làm việc

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/LĐ-GĐT ngày 09-8-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án lao động “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” tại tỉnh Bình Thuận giữa nguyên đơn là ông Trần Công T với bị đơn là công ty trách nhiệm hữu hạn L (đại diện theo pháp luật là ông H).

6. Án lệ số 22/2018/AL về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 08/2016/KDTM-GĐT ngày 20-5-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản” tại tỉnh Quảng Ninh giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn D với bị đơn là Công ty cổ phần C.

7. Án lệ số 23/2018/AL về nghĩa vụ cung cấp thông tin về tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm

Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16-3-2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là ông Đặng Văn L (người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng Văn L là ông Trần Xuân H) với bị đơn là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ C (người đại diện theo ủy quyền là ông Hoàng P, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là ông Đinh Quang T, ông Trần Ngọc T).

8. Án lệ số 24/2018/AL về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm

Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31-3-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị T với bị đơn là Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Minh N.

9. Án lệ số 25/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16-10-2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.

10. Án lệ số 26/2018/AL về đặt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 79/2012/DS-GĐT ngày 23-02-2012 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là ông Phan Thanh L với bị đơn là bà Trương Hồng Ngọc H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T.

11. Án lệ số 27/2017/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27-3-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “tranh chấp thừa kế tài sản và chia tài sản chung” ở Hà Nội giữa nguyên đơn là ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1. Người đại diện cho các đồng nguyên đơn là bà Cấn Thị N2 và bị đơn là cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo ủy quyền là: Ông Lê Hồng L. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 07 người.

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

6. THĂNG TIẾN

Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

8. DANH TIẾNG

Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

9. PARTNER so với TBPC

Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

Chúc may mắn!

(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

- Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

(nguồn: anle.toaan.gov.vn)

Cảnh cáo thư ký tòa “mua nhà cứu bị đơn”

Xem thêm:
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hội đồng Kỷ luật TAND TPHCM đã ra hình thức kỷ luật là cảnh cáo thư ký Nguyễn Đoàn Nam Hà. Hiện nay, Hà không được làm thư ký nghiệp vụ mà làm cán bộ tòa án. Hà bị cảnh cáo vì đã can thiệp vào một vụ án đòi tiền đặt cọc nhà
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, cho biết như trên và nói trước đó, lãnh đạo tòa Bình Thạnh đã báo cáo vụ tiêu cực của thư ký Hà với TAND TPHCM. Nội dung vụ việc như sau:
Ông Trần Văn Hùng mua căn nhà số 82/150A Bùi Đình Túy của ông Nguyễn Tăng Phú Nhuận. Cả hai thống nhất giá bán căn nhà là 75 lượng vàng và ghi rõ: “Anh Nhuận chịu trách nhiệm lo đầy đủ giấy tờ ra tên anh Hùng đứng giấy chủ quyền nhà và sử dụng đất”.
Sau khi nhận 70 lượng vàng đặt cọc, Nhuận luôn lẩn tránh, sau đó, giao giấy tờ photo biên lai cho ông Hùng và nói lên quận hối thúc giấy tờ. Lên Phòng Quản lý Đô thị quận Bình Thạnh, ông Hùng mới hay căn nhà này nằm trong khu giải tỏa. Ông Hùng đòi lại tiền đặt cọc nhưng Nhuận lánh mặt. Ngày 3-3-2003, ông Hùng kiện Nhuận ra TAND quận Bình Thạnh đòi 70 cây vàng đặt cọc.

Bàn việc ở quán cà phê
Để tránh việc tẩu tán tài sản, ông Hùng đã yêu cầu TAND quận Bình Thạnh kê biên nhà của Nhuận, đó là nhà số 140/80 Phan Văn Trị.
Ông Hùng kể: “Ngày 26-3-2004, tôi đến phòng của thẩm phán Trần Văn Huệ để nhận quyết định kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị thì Hà có mặt ở đó và đi theo năn nỉ tôi cho gặp riêng. Tại quán cà phê ở quận 1, thư ký Hà tỏ ý muốn mua căn nhà mà Nhuận đã bán cho tôi với giá 80 cây vàng, sẽ đưa trước 160 triệu đồng và yêu cầu tôi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị”.
Ông Hùng nói đây là chiêu thức để Hà đưa ông vào tròng. Nếu ông bán căn nhà cho Hà và nhận 160 triệu đồng đặt cọc rồi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 cho Nhuận thì Nhuận sẽ bán căn nhà này, lúc đó ông Hùng không còn gì để bảo đảm có thể thu lại được số vàng đặt cọc, còn Hà sẽ không mua nhà của ông.

Giấy triệu tập hay đương sự không đến?
Theo ông Hùng, vì TAND quận Bình Thạnh cho rằng nhà này có yếu tố người nước ngoài (chủ cũ đi nước ngoài) cùng với việc Nhuận không đến tòa theo giấy triệu tập nên vụ án cho đến giờ vẫn chưa ngã ngũ.
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, nói ông Hùng cho rằng tòa cố tình kéo dài vụ án là không đúng, vì tòa có gửi giấy triệu tập nhiều lần nhưng ông Hùng không đến.
Ông Hùng giải thích tòa Bình Thạnh triệu tập ông nhiều lần là từ khi thẩm phán Trần Văn Huệ thụ lý (trước đó do thẩm phán khác thụ lý). Tuy nhiên, lúc ấy ông đã bán nhà nên không nhận được thư triệu tập và ông có để lại số điện thoại nhưng tòa không liên lạc.
Chánh án TAND TPHCM Bùi Hoàng Danh khẳng định đã chỉ đạo TAND quận Bình Thạnh kiểm tra chặt chẽ vụ án này để xét xử nghiêm minh.
------------------
Thư ký tòa “ làm nhà đất” lâu rồi
Thư ký Hà: Chỉ có bán căn nhà này, em với thằng Nhuận mới xoay nổi sự việc thôi...
Ông Hùng: Em làm ăn với nó (Nhuận) mấy năm rồi?
Hà: Dạ cũng lâu rồi, làm cũng được vài căn rồi... Giấy tờ em chuẩn bị sẵn đây, em viết liền cho anh...
Ông Hùng: Một là cách này, hai là em về tòa với anh viết giấy em đồng ý chịu trách nhiệm đứng ra giải quyết thay thế Nguyễn Tăng Phú Nhuận.
Hà: Không,... vì em viết giấy ra tòa cũng đâu chấp nhận, về pháp lý em là người không liên quan đến vụ án, em đâu có thể nhận trách nhiệm, nếu làm được em đã làm rồi.
Ông Hùng: Tại vì cái nhà kia nó không cần bán, cứ để hoài nên anh phải chuyển qua kê biên căn nhà này...
Hà: Anh khỏi cần kê biên căn nhà nào hết..., em bán cực nhanh rồi giao hết tiền cho anh. Em hứa với anh trong vòng 7 ngày mà không đưa hết tiền cho anh, em là con chó...
(Trích băng ghi âm cuộc trao đổi giữa ông Hùng và thư ký Hà ngày 26-3-2004)
(Theo Bích Phượng, www.nld.com.vn, 28/09/2004 05:23)