Vụ xem Camry: Nếu xử sai người – Coi chừng bị hủy án
Link bản án: http://caselaw.vn/ban-an/PyRHjkBML6
Vụ xe Camry biển số 29A –xxx.xx gây tai nạn vào hồi 7h30 sáng 29/02/2016 trên đường Ái Mộ, Long Biên, Hà Nội vẫn đang được dư luận quan tâm và theo dõi suốt mấy ngày qua bởi vẫn còn nhiều nghi vấn đặt ra cho Cơ quan điều tra nhằm làm rõ thủ phạm chính của vụ án này mặc dù đã Quyết định khởi tố vào ngày 01/03/2016.
Về việc xử đúng người đúng tội và trong 01 vụ án hy hữu trước đây đây (2007 – 2009) xử người gây tai nạn giao thông, cấp Sơ thẩm và Phúc thẩm đã tuyên án cho bị cáo không phải là người điều khiển xe ô-tô gây tai nạn sau này đã bị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy án để điều tra lại.
Sau khi xảy ra vụ tai nạn vào ngày 05/02/2007 tại Gia Lai, 01 trong số những người ngồi trên xe oto gây tai nạn (Chủ xe) đã đến Cơ quan công an để khai nhận là người điều khiển xe oto gây tai nạn. Dựa vào lời khai của người “nhận tội thay” này và 02 người còn lại trên xe, cấp Sơ thẩm tuyên án 30 tháng tù treo, thử thách 42 tháng cho người này và sau khi kháng cáo, cấp Phúc thẩm tuyên thành 30 tháng tù. Đến khi kháng nghị Tái thẩm vào năm 2008, có một tình tiết mới được phát hiện ra là trước khi đến nhận tội thay, người nhận tội thay (Chủ xe) đã bàn bạc với 02 người còn lại là khai Chủ xe là người trực tiếp gây tai nạn do người thực tế lái xe gây tai nạn là Phụ xe, không có bằng lái.
Kết quả, tại Quyết định Tái thẩm số 05/2009/HS-TT, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao đã tuyên hủy án Sơ thẩm và Phúc thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung với lý do là Xác định được bị cáo không phải là người điều khiển xe ô tô gây tai nạn làm chết người.
Do vậy, trong vụ án xe Camry này, người dân rất mong cơ quan có thẩm quyền có thể tìm ra và xử đúng người, đúng tội để có thể có bản án nghiêm khắc dành cho những coi thường pháp luật.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Dự thảo Án lệ số 12/2024 về xác định mục đích góp vốn vào Công ty
DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 12/2024[1]
ÁN LỆ SỐ …./2024/AL
Về xác định mục đích góp vốn vào Công ty
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày ... tháng .... năm 2024 và được công bố theo Quyết định số …./QĐ-CA ngày…. tháng … năm . .. 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 17/2022/KDTM-GĐT ngày 13/12/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty” giữa nguyên đơn là ông Trần Mạnh H với bị đơn là Công ty TNHH Đ.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4, 5 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ :
Công ty đã thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã thể hiện các thành viên góp vốn và số vốn điều lệ. Sau đó bên góp vốn và Công ty có thỏa thuận về việc góp vốn, chia lợi nhuận nhưng không thỏa thuận về việc tăng vốn điều lệ của công ty. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không thể hiện việc tăng vốn điều lệ.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định đây là góp vốn để kinh doanh, không phải góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 (tương ứng với khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
Từ khóa của án lệ:
“Góp vốn”; “Không có thỏa thuận về góp vốn điều lệ”; “Góp vốn để kinh doanh”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Trần Mạnh H (do ông Lại Ngọc T1 là người đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Từ trước năm 2001, ông Trần V (em vợ của ông Nguyễn Văn T) và Ông T (anh rể của Ông V và Ông H) chung nhau lập Tổ hợp tác Đ, sau đổi thành Công ty Xây lắp và Sản xuất Thiết bị điện Đ (sau đây viết tắt là Công ty Đ) theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102001784 ngày 09/01/2001 do Phòng Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp, thuê địa điểm sản xuất ở Nhà máy Cơ khí Q tại Hà Nội, đăng ký trụ sở tại nhà của ông T tại 104 B4 phường B, quận H (nay là quận M), thành phố Hà Nội. Thời điểm đó, thời hạn thuê đất của Công ty đã hết, nếu không có mặt bằng thì không thế tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Ông V và Ông T đã đề nghị Ông H, đang làm ăn ở Cộng hòa Séc (Tiệp Khắc) về nước, có vốn nhàn rỗi, tham gia vào thành viên của Công ty Đ để huy động thêm vốn đầu tư về mặt bằng, nhà xưởng sản xuất, kinh doanh. Ông H đã đồng ý cùng tham gia góp vốn với Ông V, Ông T vào trong Công ty Đ.
Đầu năm 2001 (dịp Tết nguyên đán), gia đình ông Trần Mạnh H có tổ chức một cuộc liên hoan, họp mặt tại nhà riêng của ông Nguyễn Văn T tại 104 B4 phường B với thành phần gồm: Bà Nguyễn Thị H1, ông Trần Mạnh H, ông Trần V và vợ là bà Nguyễn Thị Bích T2, ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Trần Thị Ngọc B.Tại cuộc họp mặt này, Ông H, Ông V và Ông T đã cùng bàn bạc, thống nhất kết nạp thêm thành viên là Ông H vào Công ty và thống nhất tỷ lệ vốn góp của mỗi người là 1/3 tại Công ty Đ để mở rộng quy mô của công ty và cùng nhau kinh doanh, đồng thời giao cho Ông T làm Giám đốc - Người đại diện theo pháp luật của Công ty. Ông H, Ông V và Ông T đã xác định rõ, mỗi người có 1/3 phần vốn góp tại Công ty Đ, mỗi người được hưởng quyền lợi và chịu nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ vốn góp này. Tuy nhiên, đăng ký kinh doanh thì vẫn giữ nguyên, chỉ ghi tên 2 người làm thành viên là Ông V và Ông T, vì Ông H thời điểm đó chưa có Chứng minh nhân dân, chưa nhập lại hộ khẩu về Việt Nam. Ngoài ra, do Ông H thường xuyên ở nước ngoài, nếu đứng tên trên đăng ký kinh doanh thì khi cần ký giấy tờ cũng không tiện.
Riêng Ông H góp thêm 500.000.000 đồng với lý do là ông không ở Việt Nam nên không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Ông Thúy, Ông V mỗi người góp 2.251.000.000 đồng, Ông H góp 2.751.218.000 đồng.
Chính vì có việc góp tiền nêu trên nên hàng năm Ông H được nhận số tiền trích lợi nhuận hoạt động của công ty do Ông T thanh toán, cụ thể: Qua 12 năm kinh doanh, từ năm 2003 đến năm 2015, ông Trần Mạnh H đã được chia lợi nhuận từ Công ty Đ với tổng số tiền khoảng 7.000.000.000 đồng bằng tiền mặt. Trong đó có một số năm, Ông T đã gửi tiền theo 3 cuốn số tiết kiệm mang tên Ông T, sau đó đối với phần chia cho Ông H, Ông T gửi bà T2 (vợ của Ông V) giữ hộ một trong 3 cuốn sổ đó, vì Ông H ở nước ngoài. Khi Ông H cần rút tiền từ sổ tiết kiệm, thì Ông T sẽ ủy quyền để bà T2 đi rút tiền tại Ngân hàng (sự việc này đã được bà T2 xác nhận).
- Ngày 22/3/2017, trong Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty Đ trong đó có Ông H tham gia, các thành viên có tên trong Đăng ký kinh doanh (thay đổi lần thứ 5 ngày 09/5/2012), đã xác nhận số vốn đóng góp trong Công ty Đ như sau:
Ông T góp 2.251.218.000 đồng - tương đương với 31% vốn Điều lệ của Công ty;
Ông V góp 2.251.218.000 đồng - tương đương với 31% vốn Điều lệ của Công ty;
Ông H góp 2.751.218.000 đồng - tương đương với 38% vốn điều lệ của Công ty.
Tại Biên bản này cũng thể hiện, Ông H góp nhiều hơn 2 thành viên còn lại số tiền 500.000.000 đồng, nhưng do không điều hành việc kinh doanh của Công ty, nên tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của Công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ mỗi người được 33,33% (1/3), tỷ lệ sở hữu vốn của Ông H cao hơn 2 thành viên còn lại, nhưng thỏa thuận lợi nhuận được chia đều cho cả 3 thành viên.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, Ông T vẫn không tiến hành thay đổi Giấy đăng ký kinh doanh để đưa Ông H vào làm thành viên của Công ty Đ, cũng không tiến hành họp Hội đồng thành viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp để thông qua Báo cáo tài chính các năm 2015, 2016, 2017 và 2018 cũng như việc chia lợi nhuận cho các thành viên góp vốn.
Từ tháng 9/2008, sau khi Ông H có hộ khẩu và Chứng minh nhân dân tại Việt Nam thì đã có nguyện vọng đưa tên vào Công ty nên đã trao đổi và đề nghị với Ông T rất nhiều lần nhưng Ông T không đồng ý.
Ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Xác định Ông H là thành viên góp vốn của Công ty Đ và phần vốn góp của Ông H trong Công ty Đ;
2. Yêu cầu Công ty Đ tiến hành bổ sung Ông H là thành viên Công ty với số vốn thực tế Ông H đã đóng góp;
3. Yêu cầu Công ty Đ tiến hành họp Hội đồng thành viên, thông qua Báo cáo tài chính các năm 2015, 2016, 2017 và 2018 theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp 2014.
Quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Xác định phần vốn góp của ông Trần Mạnh H trong Công ty Đ là 2.751.218.000 đồng theo biên bản ngày 22/3/2017 nhưng chỉ yêu cầu xác định tỷ lệ là 1/3 (phần 500.000.000 đồng góp nhiều hơn hai thành viên còn lại thì đồng ý tự nguyện chia đều cho 03 người để tỷ lệ của cả 02 người là Ông T và Ông V mỗi người là 33,4%, Ông H là 33,2%).
2. Yêu cầu Công ty Đ tiến hành làm thủ tục tại cơ quan có thẩm quyền để bổ sung ông Trần Mạnh H là thành viên Công ty với số vốn Ông H đã đóng góp. Nếu không thì Ông H có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục ghi tên mình là thành viên của Công ty Đ.
Bị đơn là Công ty TNHH Đ (do ông Nguyễn Văn T là người đại diện theo pháp luật) trình bày:
Từ trước năm 2001, Ông V và Ông T có chung nhau lập 01 Tổ hợp tác Đ, sau đổi thành Công ty Xây lắp và Sản xuất Thiết bị điện Đ, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102001784 ngày 09/01/2001 do Phòng Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Cuối năm 2001 đến năm 2003, Ông H có chuyển tiền trực tiếp cho Ông T nhiều lần với tổng số tiền 2.751.000.000 đồng. Mục đích là gửi Ông T và Ông V kinh doanh và chia lãi (lãi không ấn định con số cụ thể phụ thuộc vào lợi nhuận kinh doanh) hàng năm. Ồng T khẳng định số tiền này không phải góp vốn vào Công ty.
Ông T xác nhận từ năm 2003 đến năm 2015 thì Ông H có được hưởng số tiền là 11.000.000.000 đồng chứ không phải là 7.000.000.000 đồng, cách thức trả hàng năm, có 3 cách là: Một là làm sổ tiết kiệm đứng tên Ông T, khi Ông H cần lấy tiền thì Ông T sẽ làm uỷ quyền cho bà T2 đi lấy tiền và chuyển cho Ông H; cách thứ hai là chuyển khoản trực tiếp; cách thứ 3 là Ông H nhận tiền trực tiếp và đều không có ký nhận gì cả.
Đối với Văn bản ngày 22/3/2017, Ông T xác nhận có chữ viết chữ ký của Ông T, Ông V, Ông H trong Văn bản này nhưng nội dung không đúng như vậy. Lý do có văn bản này là vì số tiền 2.751.000.000 đồng, Ông H đã gửi cho ông từ năm 2001 - 2003. Văn bản này do Ông V soạn thảo và cùng với Ông H mang đến bảo Ông T ký vào với mục đích là xác nhận khả năng kinh tế của Ông H để Ông H chuyển gia đình từ Tiệp Khắc sang Úc. Vì vậy, Ông T mới ký vào Văn bản ngày 22/3/2017.
Đối với đơn xin vào thành viên Công ty của Ông H (ngày 16/3/2018), Ông T có nhận được đơn của Ông H nhưng không phải do Ông T yêu cầu vì Ông T không đồng ý; đơn này, hiện Ông T đang giữ và đã nộp cho Tòa án bản sao.
Do vậy, Ông T với tư cách là đại diện theo pháp luật của Công ty Đ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 49/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Mạnh H, sinh năm 1966, có số CMND: 011420517 cấp ngày 20/9/2008 tại Công an thành phố Hà Nội đối với Công ty TNHH Đ (trước là Công ty TNHH xây lắp và sản xuất thiết bị điện Đ).
2. Xác nhận ông Trần Mạnh H, sinh năm 1966, có số CMND: 011420517 cấp ngày 20/9/2008 tại Công an thành phố Hà Nội là thành viên của Công ty TNHH Đ với tỷ lệ vốn góp là 1/3.
3. Buộc Công ty TNHH Đ làm thủ tục tại Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội để bổ sung tên ông Trần Mạnh H là thành viên của Công ty. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Mạnh H chỉ yêu cầu tỷ lệ vốn góp của mình là 33,2%.
Trường hợp Công ty TNHH điện Đ không làm thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh để bổ sung tên Ông H là thành viên của Công ty thì căn cứ quy định tại khoản 21 Điều 1 Nghị định số 108/2018/NĐ-CP ngày 23/8/2018 của Chính phủ thì ông Trần Mạnh H có quyền được thực hiện các thủ tục về đăng ký doanh nghiệp tại Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội và tại các cơ quan có thẩm quyền khác (nếu có) để bổ sung thêm ông Trần Mạnh H là thành viên Công ty với tỷ lệ vốn góp của mình là 33,2%.
4. Đình chỉ đối với yêu cầu Công ty TNHH Đ phải tiến hành họp Hội đồng thành viên Công ty và thông qua báo cáo tài chính các năm 2015, 2016, 2017, 2018 do nguyên đơn rút yêu cầu này để giải quyết sau.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 24/11/2019, Công ty trách nhiệm hữu hạn điện Đ có đơn kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 15/2020/KDTM-PT ngày 10/7/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn điện Đ. Giữ nguyên các quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 49/2019/KDTM-ST ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 28/9/2021, Công ty TNHH Đ có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/2022/KN-KDTM ngày 22/9/2022, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 15/2020/KDTM-PT ngày 10/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 49/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Để chứng minh yêu cầu khởi kiện về việc xác định phần vốn góp vào Công ty Đ, qua đó xác định tư cách thành viên của Ông H tại Công ty Đ thì ông Trần Mạnh H (nguyên đơn) cần có các tài liệu, chứng cứ bao gồm: Thỏa thuận của các đương sự về việc cùng thành lập Công ty, ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập Công ty (nếu là Công ty cổ phần); có tên trong Điều lệ Công ty; có tên trong danh sách thành viên Công ty khi đăng ký kinh doanh; có tên trong giấy chứng nhận đăng ký phần vốn góp tương ứng với giá trị phần vốn đã góp; có tên trong sổ đăng ký thành viên; hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc quản lý, điều hành trong hội đồng thành viên của Công ty. Tuy nhiên, Ông H không có các tài liệu, chứng cứ này để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ.
[2] Các bên đương sự đều thừa nhận Ông H có góp 2.751.000.000 đồng vào Công ty theo Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty Đ ngày 22/3/2017 với tổng số vốn góp là 7.253.656.000 đồng (của cả 3 người là ông Trần V, ông Trần Mạnh H và ông Nguyễn Văn T). Cũng theo Biên bản này thì các bên nhất trí tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của Công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ như nhau là mỗi người được hưởng 33,33% (1/3), Ông H tự nguyện góp nhiều hơn 500.000.000 đồng nhưng không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Các bên đều ký vào biên bản này để làm bằng chứng về việc góp vốn và chia lợi nhuận mà không có nội dung nào thỏa thuận việc công nhận hay bổ sung thêm Ông H làm thành viên Công ty.
[3] Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì “Góp vốn” là việc góp tài sản để tạo thành “vốn điều lệ” của Công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn đế thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.
[4] Thực tế, Công ty Đ được thành lập năm 2001 có 02 thành viên góp vốn là ông Nguyên Văn T và ông Trần V, với vốn điều lệ được đăng ký là 1.000.000.000 đồng; đăng ký thay đổi doanh nghiệp các lần sau đó (lần 2, 3, 4, 5) vào các năm 2006, 2010, 2012 theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì Công ty có 02 thành viên là Ông T và Ông V với vốn điều lệ Công ty đã đăng ký là 6.000.000.000 đồng.
[5] Theo Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty ngày 22/3/2017 nêu trên thì các bên chỉ xác nhận việc góp vốn mà không có nội dung nào xác nhận đây là số vốn góp để thành lập Công ty hay nâng vốn điều lệ của Công ty theo quy định. Các bên chỉ xác định việc chia lợi nhuận, thu nhập của mỗi nguời là 33,33% mà không có nội dung nào thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của mình đối với: các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty theo Điều lệ Công ty. Mặt khác, tại biên bản này, Ông H tự xác định không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Nếu xác định đây là việc góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty từ 6.000.000.000 đồng lên 7.253.656.000 đồng như các bên đã thỏa thuận thì việc tăng vốn này cũng chưa được công nhận vì chưa đăng ký và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
[6] Ngoài ra, chính Ông H ngày 16/3/2018 mới có đơn xin gia nhập Công ty Đ và Công ty E để hợp pháp hóa số tiền vốn đã góp vào 2 Công ty trên là 33,3%. Tuy nhiên, Ông T không đồng ý làm thủ tục theo quy định để công nhận Ông H là thành viên Công ty mà chỉ thừa nhận Ông H góp vốn để kinh doanh cùng Công ty và được chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn kinh doanh đã góp.
[7] Theo quy định thì vốn điều lệ, việc góp vốn điều lệ để trở thành thành viên Công ty và việc góp vốn để kinh doanh là 2 vấn đề khác nhau. Các bên không có thỏa thuận, không đăng ký tăng vốn điều lệ lên 7.253.656.000 đồng, trong đó, Ông H đã góp là 2.751.000.000 đồng nhưng Tòa án xác định Ông H góp 33,3% vốn điều lệ là chưa đủ cơ sở. Thực tế thì sau khi thành lập Công ty năm 2001, do thiếu vốn nên Ông V, Ông T có bàn bạc huy động vốn của Ông H để thuê 42.970 m2 đất mở rộng nhà máy sản xuất ở Hưng Yên (như lời khai của chính đại diện của nguyên đơn). Như vậy, chỉ có cơ sở xác định Ông H góp vốn kinh doanh, không phải góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông H, xác nhận ông Trần Mạnh H là thành viên của Công ty Đ với tỷ lệ vốn góp là 1/3 là không phù hợp với các tình tiết nêu trên. Khi giải quyết lại vụ án, nếu không có chứng cứ nào khác thì cần bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/2022/KN- KDTM ngày 22/9/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 15/2020/KDTM-PT ngày 10/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 49/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty” giữa nguyên đơn là ông Trần Mạnh H với bị đơn là Công ty TNHH Đ; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[4] Thực tế, Công ty Đ được thành lập năm 2001 có 02 thành viên góp vốn là ông Nguyễn Văn T và ông Trần V, với vốn điều lệ được đăng ký là 1.000.000.000 đồng; đăng ký thay đổi doanh nghiệp các lần sau đó (lần 2, 3, 4, 5) vào các năm 2006, 2010, 2012 theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì Công ty có 02 thành viên là Ông T và Ông V với vốn điều lệ Công ty đã đăng ký là 6.000.000.000 đồng.
[5] Theo Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty ngày 22/3/2017 nêu trên thì các bên chỉ xác nhận việc góp vốn mà không có nội dung nào xác nhận đây là số vốn góp để thành lập Công ty hay nâng vốn điều lệ của Công ty theo quy định. Các bên chỉ xác định việc chia lợi nhuận, thu nhập của mỗi nguời là 33,33% mà không có nội dung nào thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của mình đối với: các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty theo Điều lệ Công ty. Mặt khác, tại biên bản này, Ông H tự xác định không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Nếu xác định đây là việc góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty từ 6.000.000.000 đồng lên 7.253.656.000 đồng như các bên đã thỏa thuận thì việc tăng vốn này cũng chưa được công nhận vì chưa đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
[7] Theo quy định thì vốn điều lệ, việc góp vốn điều lệ để trở thành thành viên Công ty và việc góp vốn để kinh doanh là 2 vấn đề khác nhau. Các bên không có thỏa thuận, không đăng ký tăng vốn điều lệ lên 7.253.656.000 đồng, trong đó, Ông H đã góp là 2.751.000.000 đồng nhưng Tòa án xác định Ông H góp 33,3% vốn điều lệ là chưa đủ cơ sở. Thực tế thì sau khi thành lập Công ty năm 2001, do thiếu vốn nên Ông V, Ông T có bàn bạc huy động vốn của Ông H để thuê 42.970 m2 đất mở rộng nhà máy sản xuất ở Hưng Yên (như lời khai của chính đại diện của nguyên đơn). Như vậy, chỉ có cơ sở xác định Ông H góp vốn kinh doanh, không phải góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông H, xác nhận ông Trần Mạnh H là thành viên của Công ty Đ với tỷ lệ vốn góp là 1/3 là không phù hợp với các tình tiết nêu trên. Khi giải quyết lại vụ án, nếu không có chứng cứ nào khác thì cần bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.”
LÝ DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ
Việc góp vốn để trở thành thành viên công ty (góp vốn để thành lập công ty hay góp vốn để tăng vốn điều lệ) được quy định trong Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, ranh giới giữa góp vốn để trở thành thành viên công ty và góp vốn để kinh doanh chưa rõ ràng và chưa được quy định cụ thể nên dẫn đến các tranh chấp liên quan đến vấn đề góp vốn và xác định mục đích thật sự của việc góp vốn ấy là góp vốn để trở thành thành viên/cổ đông hay góp vốn để nhằm mục đích kinh doanh và phân chia lợi nhuận.
Dự thảo án lệ trên đã chỉ rõ tiêu chí phân biệt giữa hai loại góp vốn nêu trên và đưa ra hướng giải quyết như vậy là chấp nhận được.
Thực tế, trong các án lệ được công bố, chưa có án lệ nào về lĩnh vực doanh nghiệp nên việc thông qua Dự thảo nêu trên cũng làm tăng sự đa dạng của án lệ hiện nay.
[1] Dự thảo án lệ này do GS. Đỗ Văn Đại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
THÔNG BÁO: TẠM DỪNG TIẾP NHẬN KHAI HẢI QUAN TỪ 23H00 NGÀY 14/3/2025 ĐẾN 05H00 NGÀY 15/3/2025
Cục Hải quan – Bộ Tài chính vừa ban hành Thông báo số 130/CHQ-CNTT ngày 13/3/2025, thông báo về việc tạm dừng tiếp nhận khai hải quan trong khoảng thời gian từ 23h00 ngày 14/3/2025 đến 05h00 ngày 15/3/2025.
Nguyên nhân tạm dừng tiếp nhận khai hải quan
Cục Hải quan đang triển khai hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) mới, phù hợp với mô hình tổ chức được quy định tại Nghị định 29/2025/NĐ-CP của Chính phủ. Việc nâng cấp này nhằm cải thiện hiệu suất xử lý khai báo hải quan, tối ưu quy trình số hóa và nâng cao chất lượng phục vụ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đối tượng bị ảnh hưởng & khuyến nghị cho doanh nghiệp
Các doanh nghiệp forwarder, logistics, xuất nhập khẩu cần đặc biệt lưu ý để tránh gián đoạn quy trình khai báo hàng hóa. Cục Hải quan khuyến nghị các đơn vị chủ động sắp xếp thời gian nộp tờ khai trước hoặc sau khung giờ nâng cấp hệ thống để đảm bảo tiến độ giao nhận hàng hóa.
Các đơn vị nhận thông báo chính thức
- Kho bạc Nhà nước
- Cục Thuế
- Cục CNTT và Chuyển đổi số – Bộ Tài chính
- Cảng vụ Đường thủy nội địa Hải Phòng
- Các ngân hàng thương mại
Thông tin quan trọng này sẽ ảnh hưởng đến quá trình khai báo hải quan và thông quan hàng hóa. Forwarder, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần theo dõi sát sao để chủ động điều chỉnh kế hoạch vận hành.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Nghị quyết 42 phiên bản nâng cấp: Cơ hội mới cho ngân hàng trong xử lý nợ xấu
Trong một hội nghị gần đây, Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của NHNN về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024.
Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo là việc luật hóa một số quy định từ Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Trước đó, Nghị quyết 42 đã được gia hạn đến hết năm 2023 và nay đã hết hiệu lực. Điểm đáng chú ý của nghị quyết này là cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu.
Phiên bản nâng cấp của Nghị quyết 42, sau khi được luật hóa, sẽ mang lại cơ chế pháp lý chặt chẽ hơn, giúp ngân hàng có thêm quyền trong việc thu giữ, xử lý và phát mại tài sản bảo đảm. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản đã có quyết định từ tòa án và đang trong giai đoạn thi hành án.
Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, dự kiến Chính phủ sẽ trình dự thảo lên Quốc hội trong kỳ họp tháng 5. Nếu chưa kịp, việc xem xét có thể chuyển sang kỳ họp vào tháng 9. Đây là tín hiệu tích cực cho các ngân hàng thương mại đang gặp khó khăn trong xử lý nợ xấu.
Hoàn thiện khung pháp lý để tháo gỡ khó khăn trong xử lý nợ xấu
NHNN, với vai trò là cơ quan soạn thảo, đã trình Chính phủ dự thảo từ đầu tháng 3. Theo NHNN, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý trong xử lý nợ xấu, giúp tháo gỡ những vướng mắc hiện nay, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.
Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là việc xử lý tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp, người nắm giữ tài sản không tự nguyện bàn giao, buộc tổ chức tín dụng phải tiến hành khởi kiện và chờ phán quyết từ tòa án, dẫn đến quá trình xử lý kéo dài. Hiện nay, pháp luật mới chỉ quy định quyền yêu cầu tòa án can thiệp khi tài sản không được bàn giao, nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền thu giữ trực tiếp của bên nhận bảo đảm. Điều này gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện thu giữ tài sản khi bên vay không hợp tác hoặc có hành vi trì hoãn.
Ngoài ra, một vấn đề khác là tài sản bảo đảm có thể bị kê biên để thi hành án cho các nghĩa vụ không liên quan đến khoản vay, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.
Dự thảo Luật sửa đổi đề xuất quy định rằng sau khi hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ và đảm bảo không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tố tụng có trách nhiệm hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự theo đề nghị của tổ chức tín dụng hoặc đơn vị xử lý nợ.
Tình hình nợ xấu và tác động của chính sách mới
Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng niêm yết giảm còn 1,92%, giảm 0,31% so với quý III/2024 nhưng vẫn cao hơn 0,42% so với giai đoạn trước năm 2020.
Báo cáo tài chính quý IV/2024 của các ngân hàng cho thấy, tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tại 25 ngân hàng niêm yết lên tới 118.915 tỷ đồng (tương đương khoảng 4,75 tỷ USD), tăng 39,3% so với đầu năm. Tuy nhiên, con số này chưa bao gồm dữ liệu từ LPBank và VIB do hai ngân hàng này chỉ công bố số liệu về nợ quá hạn mà không chi tiết theo từng nhóm nợ.
Với các ngân hàng đã công bố báo cáo, có thể thấy nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ xấu. Một số ngân hàng thậm chí ghi nhận tỷ lệ nợ nhóm 5 lên tới hơn 90% tổng nợ xấu (bao gồm nợ nhóm 3 đến nhóm 5).
Việc nâng cấp Nghị quyết 42 thành luật không chỉ giúp ngân hàng xử lý nhanh hơn các khoản nợ xấu mà còn cải thiện tính thanh khoản và khả năng xoay vòng vốn, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý hơn.
Tác động của việc luật hóa Nghị quyết 42 đến hệ thống ngân hàng
Việc chuyển hóa Nghị quyết 42 thành luật chính thức sẽ có nhiều tác động quan trọng đối với hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Một trong những lợi ích lớn nhất là giúp đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, qua đó cải thiện chất lượng tài sản và nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, việc quy định rõ quyền thu giữ tài sản bảo đảm sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu tình trạng nợ xấu tồn đọng kéo dài. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng mà còn tạo ra một môi trường tài chính minh bạch, lành mạnh hơn, từ đó khuyến khích dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, để quá trình thực thi đạt hiệu quả cao nhất, các tổ chức tín dụng cần có kế hoạch triển khai phù hợp, bao gồm việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp lý, tòa án và cơ quan thi hành án để đảm bảo quá trình thu giữ và xử lý tài sản được thực hiện đúng pháp luật, tránh tranh chấp kéo dài.
Cơ hội và thách thức trong triển khai thực tế
Mặc dù việc luật hóa Nghị quyết 42 mang lại nhiều lợi ích, nhưng quá trình triển khai cũng sẽ đối mặt với không ít thách thức. Một trong những vấn đề đáng lo ngại là phản ứng từ các bên vay nợ khi ngân hàng được trao quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Nếu không có cơ chế giám sát chặt chẽ, có thể xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực hoặc vi phạm quyền lợi hợp pháp của người vay.
Bên cạnh đó, việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn phải tuân thủ quy trình tố tụng và thi hành án, do đó các ngân hàng cần có chiến lược xử lý hợp lý để tránh gây xung đột pháp lý. Đặc biệt, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm ngân hàng, cơ quan pháp lý và khách hàng để đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên được bảo vệ công bằng.
Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang chịu nhiều tác động từ biến động toàn cầu, các ngân hàng cần linh hoạt trong việc tái cơ cấu nợ và tìm kiếm các giải pháp xử lý phù hợp thay vì chỉ tập trung vào việc thu giữ tài sản. Việc kết hợp giữa các biện pháp thu hồi nợ hiệu quả và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, đồng thời duy trì sự ổn định của thị trường tài chính.
Kết luận
Việc luật hóa Nghị quyết 42 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm. Nếu được triển khai đúng cách, chính sách này không chỉ giúp giảm áp lực nợ xấu trong hệ thống ngân hàng mà còn góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi trong thực tế, các ngân hàng và cơ quan quản lý cần có những biện pháp đồng bộ nhằm kiểm soát rủi ro, tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Khi các vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ trở thành một giải pháp hiệu quả giúp hệ thống ngân hàng phát triển bền vững hơn trong tương lai.
Nguồn: tổng hợp
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tư duy ngược: Nghĩ khác đi để tìm lối ra
Có bao giờ bạn thấy bế tắc khi cố gắng giải quyết một vấn đề mà nghĩ mãi không ra? Chẳng hạn, bạn muốn tiết kiệm tiền nhưng cứ mãi loay hoay với câu hỏi “Làm sao để kiếm thêm?”. Thế rồi, bạn thử nghĩ ngược lại: “Làm sao để tiêu ít đi?”. Bỗng nhiên, mọi thứ sáng tỏ hơn. Đó chính là sức mạnh của tư duy ngược – cách suy nghĩ “đi đường vòng” để tìm lối ra. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng bạn khám phá tư duy ngược là gì, nó hoạt động ra sao, và làm thế nào để áp dụng nó vào cuộc sống một cách đơn giản mà hiệu quả.
Tư duy ngược là gì? Nghĩ ngược mà không “ngược đời”
Tư duy ngược, nói đơn giản, là thay vì nghĩ theo cách thông thường từ A đến Z, bạn đi từ Z ngược về A. Thay vì hỏi “Làm sao để thành công?”, bạn thử hỏi “Làm sao để thất bại?”. Nghe lạ đúng không? Nhưng chính cái lạ này lại giúp ta nhìn vấn đề rõ hơn, vì ta buộc phải nhìn từ một góc khác.
Ví dụ nhé: Bạn muốn mở một quán cà phê đông khách. Cách nghĩ bình thường là “Mình cần pha cà phê ngon, trang trí đẹp, chọn chỗ đông người qua lại”. Nhưng nếu nghĩ ngược, bạn tự hỏi: “Làm sao để quán cà phê của mình ế khách???”. Câu trả lời có thể là: pha cà phê dở, thái độ phục vụ tệ, chọn chỗ vắng hoe, trang trí tồi tài, không quảng cáo gì cả. Khi biết những điều khiến quán ế, bạn chỉ cần làm ngược lại – thế là có công thức để quán đông!
Tư duy ngược không phải là để làm ta rối, mà là để bạn thấy những thứ mà cách nghĩ thông thường hay bỏ qua. Nó giống như khi ta đứng ở cuối con đường nhìn ngược về điểm xuất phát, thay vì cứ mò mẫm đi tới mà không rõ đích đến.
Tư duy ngược “hay ho” như thế nào?
Bình thường, bộ não của chúng ta thích đi theo lối mòn. Khi muốn giảm cân, ta nghĩ ngay: “Phải ăn kiêng, phải tập gym”. Nhưng nếu mãi không giảm được, ta mau chán. Thử nghĩ ngược xem: “Làm sao để mình tăng cân thật nhanh?”. Có thể ta sẽ liệt kê: ăn toàn đồ chiên xào, uống nước ngọt mỗi ngày, ngồi ì một chỗ không vận động. Vậy muốn giảm cân, ta chỉ cần tránh những thứ đó – đơn giản hơn nhiều so với việc ép mình theo chế độ khắc nghiệt.
Tư duy ngược hay ở chỗ nó giúp ta tìm ra nguyên nhân gốc rễ, thay vì chỉ loay hoay với hiện tượng bề mặt. Nó cũng làm ta bật cười vì sự “ngược đời” của mình, từ đó bớt căng thẳng khi đối mặt với vấn đề. Chẳng hạn, nếu ta đang lo lắng vì công việc quá tải, thay vì hỏi “Làm sao để làm hết việc?”, thử hỏi “Làm sao để mình chẳng làm được gì?”. Câu trả lời có thể là: ngủ nướng, lướt điện thoại cả ngày, không lên kế hoạch. Biết vậy, ta chỉ cần làm ngược lại – dậy sớm, tắt thông báo điện thoại, lập danh sách việc cần làm – thế là xong!
Một vài ví dụ rất “đời” cho tư duy ngược
Để dễ hình dung, ta cùng xem một vài câu chuyện thật gần gũi nhé.
Ví dụ 1: Chuyện cái tủ quần áo lộn xộn
Nhà bạn có cái tủ quần áo lúc nào cũng như bãi chiến trường không? Bạn muốn dọn mà không biết bắt đầu từ đâu. Cách nghĩ thông thường là: “Mình phải xếp từng cái áo, phân loại đồ mùa đông, mùa hè”, rồi “xếp quần áo đi làm riêng, quần áo đi chơi riêng, vân vân mây mây. Nhưng bạn thử nghĩ ngược: “Làm sao để tủ càng ngày càng rối?”. Đáp án dễ thôi: cứ tiện tay là nhét đại quần áo vào, không gấp, mua thêm đồ mới mà không bỏ cái cũ. Vậy muốn tủ gọn, bạn làm ngược lại: bỏ bớt đồ không mặc, gấp gọn từng cái, để trống chỗ cho tủ “thở”. Chỉ sau một buổi chiều, tủ bạn đã “sang” hẳn!
Ví dụ 2: Chuyện đi học muộn
Bạn hay đi học hoặc đi làm muộn, dù đã cố gắng dậy sớm? Thay vì hỏi “Làm sao để đi đúng giờ?”, thử nghĩ ngược: “Làm sao để mình muộn hẳn luôn?”. Có thể là: tắt báo thức, nằm ngủ nướng thêm 30 phút, chọn quần áo mãi không xong. Biết những “thủ phạm” này, bạn chỉ cần làm ngược lại: đặt báo thức xa giường, chuẩn bị đồ từ tối hôm trước, dậy là bật người ra khỏi giường. Đơn giản mà hiệu quả bất ngờ!
Ví dụ 3: Chuyện kinh doanh nhỏ
Giả sử bạn bán hàng online mà khách thưa dần. Bạn nghĩ: “Mình phải đăng bài nhiều hơn, giảm giá sâu hơn”. Nhưng thử nghĩ ngược: “Làm sao để không ai mua hàng của mình?”. Câu trả lời có thể là: trả lời tin nhắn chậm, giao hàng lâu, sản phẩm kém chất lượng. Vậy để khách quay lại, bạn cải thiện tốc độ trả lời, giao hàng nhanh, và đảm bảo hàng tốt. Khách tự khắc đông lên mà bạn không cần giảm giá quá nhiều.
Làm sao để tập tư duy ngược?
Nghe thì hay, nhưng làm sao để áp dụng tư duy ngược vào cuộc sống mà không thấy “khó chịu”? Đừng lo, đây là vài mẹo nhỏ:
- Hỏi câu ngược lại: Gặp vấn đề gì, cứ thử đặt câu hỏi ngược. Muốn ngủ ngon? Hỏi “Làm sao để mất ngủ?”. Muốn tiết kiệm? Hỏi “Làm sao để tiêu hết tiền?”. Từ đó, bạn sẽ thấy hướng đi rõ hơn.
- Viết ra giấy: Liệt kê những thứ “ngược đời” bạn nghĩ ra, rồi chọn cách làm ngược lại. Viết ra giúp bạn không bị rối.
- Thử với việc nhỏ trước: Đừng vội áp dụng vào chuyện lớn như đổi công việc. Bắt đầu từ việc đơn giản như dọn bàn làm việc hay lên kế hoạch ngày mới.
Ví dụ, bạn muốn tập thể dục đều đặn. Thay vì nghĩ “Làm sao để duy trì?”, hỏi “Làm sao để mình bỏ cuộc?”. Có thể là: chọn bài tập quá nặng, không có lịch cụ thể, tập một mình chán. Vậy bạn làm ngược lại: chọn bài nhẹ nhàng, đặt lịch cố định, rủ bạn tập cùng – thế là gắn bó được lâu!
Cho nên, hãy nghĩ ngược để sống xuôi
Tư duy ngược không phải là cách nghĩ kỳ quái để làm màu, mà là một “công cụ” đơn giản giúp ta nhìn vấn đề từ góc khác. Ta không cần phải thông minh vượt trội, chỉ cần chịu thay đổi cách hỏi một chút. Từ chuyện nhỏ như dọn nhà, đi học đúng giờ, đến chuyện lớn như kinh doanh hay quản lý cuộc sống, tư duy ngược đều có thể “gỡ rối” cho ta.
Lần tới khi bị bế tắc, đừng vội cáu kỉnh. Thử đứng ở “đích đến” nhìn ngược về, biết đâu ta sẽ thấy con đường ngắn hơn để đi. Cuộc sống vốn đã phức tạp, sao không thử nghĩ ngược một chút để mọi thứ “xuôi” hơn? Nghĩ khác đi, ta sẽ ngạc nhiên với những gì mình làm được đấy!
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.
Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để “làm đẹp” văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như “người giữ hòa khí” để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!
Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?
Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.
Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là “good faith” trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc “nguyên tắc trung thực, thiện chí” ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.
Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?
Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.
Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.
Tại sao thiện chí lại quan trọng?
Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.
Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế
Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.
Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.
Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.
Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp
Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.
Nhưng thiện chí có giới hạn không?
Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.
Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.
Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta
Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.
Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.
Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau
Thiện chí trong những câu chuyện đời thường
Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.
Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.
Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.
Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?
Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:
- Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
- Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
- Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.
Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.
Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời
Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.
Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)
Giới thiệu tổng quan
Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.
1. Thông tin vụ việc
1.1. Bên yêu cầu
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
- Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
- Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
- Công ty Cổ phần Mía đường 333
- Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng
1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM
- Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
- Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
- Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
(Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)
1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM
- Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia
2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp
Mức thuế CBPG và CTC
Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)
Quốc gia |
Thuế CBPG |
Thuế CTC |
Campuchia |
42,99% |
4,65% |
Indonesia |
42,99% |
4,65% |
Lào |
42,99% |
4,65% |
Malaysia |
42,99% |
4,65% |
Myanmar |
42,99% |
4,65% |
Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:
Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:
- Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
- Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
- PT. Kebun Tebu Mas
- Mitr Lao Sugar Company Limited
- Savannakhet Sugar Corporation
- TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
- Than Daung OO Company Limited
- Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited
Thời hạn áp dụng
- Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
- Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
3. Tình trạng vụ việc hiện nay
- Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.
4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc
- Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
- Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.
Các sự kiện đáng chú ý
Thời gian |
Sự kiện |
21/09/2021 |
Khởi xướng điều tra |
01/08/2022 |
Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM |
28/03/2023 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/12/2023 |
Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/03/2024 |
Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới |
10/06/2024 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Kính chào Quý khách hàng,
Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.
Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam;
(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong.
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam
Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:
(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:
Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu.
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:
Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.
Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc.
Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.
Trân trọng,
Caselaw Việt Nam Team
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)
1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/BqXxug9SI9/thoa-thuan-dat-coc-mua-dat-nong-nghiep
- Số lượng điều khoản: 4 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/ROoRhUD1cN/hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-gop-von-bang-gia-tri-quyen-su-dung-dat
- Số lượng điều khoản: 11 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/AG0f9aFL00/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-tai-san-gan-lien-tren-dat-xay-dung-cua-hang-xang-dau
- Số lượng điều khoản: 5 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/lIzkSubzKW/hop-dong-cho-muon-dat
- Số lượng điều khoản: 12 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/3opJBbrs7V/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-quyen-so-huu-nha-o-ms-01
- Số lượng điều khoản: 15 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/921tNDPcw6/hop-dong-dat-coc-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-ms-01
- Số lượng điều khoản: 8 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/8D3CfBTSyz/hop-dong-the-chap-quyen-su-dung-dat-va-can-ho-ms-01
- Số lượng điều khoản: 14 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tuyển tập 11 án lệ được Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC ban hành trong năm 2018
Đang cập nhật
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)
Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sư: https://www.facebook.com/theskilledlawyers/
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)
6. THĂNG TIẾN
Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng.
Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.
7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG
Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.
8. DANH TIẾNG
Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp.
Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư.
Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư.
Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.
9. PARTNER so với TBPC
Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner.
Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết.
Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty.
Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách.
Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại.
Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.
Chúc may mắn!