- Trang chủ
- Bài viết
- Đọc án mỗi ngày
- Dự thảo án lệ 22 (đợt 3): Dự thảo án lệ về xác định tài sản chiếm đoạt trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Dự thảo án lệ 22 (đợt 3): Dự thảo án lệ về xác định tài sản chiếm đoạt trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Án lệ số /2017/AL về về xác định tài sản chiếm đoạt trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày tháng năm 2017và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án hình sự phúc thẩm số 722/2016/HS-PT ngày 23 và 26 tháng 12 năm 2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo S, sinh năm 1967; chỗ ở: đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày25/7/2014.
Nguyên đơn dân sự: Công ty A thuộc Ngân hàng B; Địa chỉ: đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 2 phần “Xét thấy” của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người nào thực hiện hành vi chiếm đoạt doanh thu, lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê để sử dụng cho mục đích cá nhân nhưng không có hành vi chiếm đoạt tài sản thuê đó.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, doanh thu, lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê đó thuộc về tài sản thuê và hành vi chiếm đoạt số tiền đó cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; “Số tiền lợi nhuận có được từ việc sử dụng, khai thác tài sản thuê”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và nội dung bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Khái quát một số nét về Công ty A và các Công ty xin thuê tài chính liên quan đến Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 và Hợp đồng số 119 /08/HĐ ngày 28/11/2008.
Công ty A (là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập trực thuộc Ngân hàng B, được thành lập theo Quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động theo Giấy phép của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trụ sở chính Công ty A đóng tại Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định của Nhà nước, Công ty A được triển khai các nghiệp vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 01 năm trở lên; vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn; phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên một năm; tiếp nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; được vay vốn của các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng; cho thuê tài chính; cho thuê vận hành; cho thuê hợp vốn… thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Nhà nước cho phép. Hoạt động của Công ty A về cho thuê tài chính phải tuân thủ Luật Các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997; Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ quy định cho thuê tài chính; Thông tư số 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 quy định về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. Thực hiện nghiệp vụ cho thuê, Công ty A phải chấp hành đúng quy trình cho thuê ban hành kèm theo Quyết định số 90/QĐ-HĐQT-QLDN ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B. H giữ chức vụ là thành viên Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng cho thuê Công ty A từ tháng 01/2006 đến tháng 10/2009; T, Phó tổng giám đốc phụ phụ trách cho thuê, Thành viên Hội đồng cho thuê Công ty A từ tháng 4/2004 đến 01/12/201; X, Trưởng Phòng cho thuê, Thành viên Hội đồng cho thuê, Tổ trưởng tổ cho thuê tàu biển từ 9/2005 đến 6/2010; V, Phó trưởng phòng cho thuê, Tổ phó tổ cho thuê tàu biển từ 3/2005 đến 3/2010; C, cán bộ Phòng cho thuê, thực hiện công tác thẩm định dự án và hồ sơ cho thuê từ tháng 5/2008 đến tháng 7/2015 bị buộc thôi việc.
Công ty TNHH D hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 21/12/2006 do L làm Giám đốc, ngày 07/8/2010 chuyển giao cho S làm Giám đốc điều hành công ty. Ngành, nghề kinh doanh: dịch vụ đại lý tàu biển, đại lý vận tải đường biển, đại lý môi giới hàng hải, vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương …
Công ty TNHH E hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 08/10/2008 do G làm Giám đốc, ngày 28/3/2009 chuyển giao cho R làm Giám đốc, ngày 08/4/2010 R chuyển giao S làm giám đốc. Ngành, nghề kinh doanh: dịch vụ đại lý tàu biển, vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương, đại lý vận tải đường biển.
Tháng 11/2008, H đã chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê V, Phó trưởng phòng cho thuê và C, Cán bộ phòng cho thuê của Công ty A, lập và thẩm định hồ sơ sau đó làm thủ tục cho Công ty TNHH D do L làm Giám đốc và Công ty TNHH E do G làm Giám đốc ký hợp đồng thuê tài chính (02 tàu biển) trị giá 188.903.049.700 đồng, cả 02 công ty trên sau này chuyển lại cho S làm Giám đốc chịu trách nhiệm về nghĩa vụ thuê tài chính đối với Công ty A. Hồ sơ đề nghị thuê tài chính của Công ty TNHH D thể hiện Công ty Chỉ có số vốn 1.999.455.949 đồng, trong đó có 1.084.750.521 đồng tiền mặt, còn lại 914.705.428 đồng là tài sản cố định. Công ty TNHH E có số vốn 10 tỷ đồng, trong đó có 09 tỷ đồng tiền mặt, còn lại 01 tỷ đồng là tài sản cố định. Không có tài liệu chứng minh doanh nghiệp có nguồn vốn khác như bảo lãnh tín dụng, hợp đồng vay vốn. Với năng lực tài chính như vậy thì tại thời điểm đề nghị thuê tài chính, Công ty TNHH D và Công ty TNHH E không đủ khả năng tài chính để nộp tiền đặt cọc, ký cược cũng như đảm bảo trả tiền thuê tài chính đúng cam kết. Thực hiện chủ trương mua cho thuê tàu, nên sau khi các bộ phận nghiệp vụ thẩm định xong hồ sơ cho thuê, biết không đủ điều kiện cho thuê nhưng H vẫn ký 02 Hợp đồng cho thuê tài chính gồm: Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008, cho Công ty TNHH D thuê tài chính để mua tàu Q, trị giá 94.450.000.000 đồng; Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008, cho Công ty TNHH E thuê tài chính để mua tàu Đ, trị giá: 94.453.049.700 đồng. Việc ký, thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính này gây thiệt hại cho Công ty A 244.818.888.566đồng. Trong đó, S, Giám đốc của 02 Công ty TNHH D và Công ty TNHH E, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và gây thiệt hại cho Công ty A 118.804.099.939đồng. Cụ thể như sau:
2. Về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của: H, T, X, V và C trong việc ký thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 và Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008.
2.1. Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008, cho Công ty TNHH D thuê tài chính để mua tàu Q:
Ngày 06/10/2008, L, Giám đốc Công ty TNHH D ký văn bản và dự án đề nghị Công ty A cho thuê tài chính tàu Q, trọng tải 4332,3 tấn trị giá 94.450.000.000 đồng của Công ty I, nguồn gốc tàu do Công ty đóng tàu Đại Dương đóng và cung ứng bán cho Công ty A. Sau khi nhận được hồ sơ xin thuê tàu, biết công ty này không đủ điều kiện thuê tài chính, H vẫn phê duyệt vào văn bản đề nghị xin thuê sau đó chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc và X, Trưởng phòng cho thuê chỉ đạo các cán bộ phòng cho thuê tiếp xúc với khách hàng để làm các thủ tục cho thuê. H cũng đã thông báo cho T và X biết Công ty TNHH D không đủ điều kiện thuê tài chính, nhưng phải làm thủ tục cho thuê. Thực hiện chỉ đạo của H, Giám đốc Công ty A, X và V đã chỉ đạo và giao cho C, cán bộ Phòng cho thuê nghiên cứu, thẩm định dự án và hồ sơ xin thuê tàu của Công ty TNHH D. Theo chỉ đạo của X và V, ngày 11/11/2008, C đã nghiên cứu thẩm định hồ sơ, dự án của Công ty TNHH D. Trước khi thẩm định, C biết việc thẩm định cho thuê tài chính chỉ là thủ tục, khi nghiên cứu hồ sơ thấy Công ty TNHH D không đủ điều kiện, năng lực tài chính, để thuê tàu nhưng theo chỉ đạo của X và V, S vẫn hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ và đã lập Báo cáo thẩm định, đề nghị duyệt cho thuê tài chính đối với Công ty TNHH D. Báo cáo thẩm định đã được V ký duyệt với nội dung: xác nhận doanh nghiệp đủ khả năng thuê tài chính và thanh toán tiền thuê, đề xuất cho thuê tàu. Ngày 17/11/2008, Công ty A đã họp Hội đồng cho thuê thành phần gồm có: H, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng, T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê, Lê Thị Tám, Phó phòng kế toán (phụ trách nguồn vốn), C, cán bộ thẩm định và Vũ Thị Thái Hà, Thư ký. Hội đồng cho thuê đã đồng ý 100% cho Công ty TNHH D thuê tàu Q. Việc các thành viên Hội đồng cho thuê hợp đồng ý ký biểu quyết cho thuê là thực hiện theo chủ trương, chỉ đạo của H nhằm để Công ty TNHH D được thuê tài chính tàu Q. Ngày 18/11/2008, H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng số 116/08/HĐ và các phụ lục hợp đồng cho Công ty TNHH D thuê tài chính tàu Q, trị giá 94.450.000.000 đồng (bao gồm thuế VAT, phí đăng kiểm, phí bảo hiểm, lệ phí trước bạ); lãi suất 1,5%/tháng, lãi suất thay đổi khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi lãi suất cơ bản; thời hạn thuê là 180 tháng; định kỳ 06 tháng phải trả nợ gốc và nợ lãi (gọi là tiền thuê tài chính) một lần với định mức cụ thể được quy định tại Điều 14 và Phụ lục 4B kèm theo hợp đồng. Để được thuê tài chính theo hợp đồng đã ký thì Công ty TNHH D phải nộp đủ tiền đặt cọc, ký cược cho Công ty A số tiền là 9.446.000.000 đồng sau khi ký hợp đồng nhưng đến ngày 24/02/2009 sau 03 tháng, Công ty TNHH D mới nộp đủ 9.446.000.000 đồng tiền đặt cọc, ký cược.
Thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ, ngày 20/11/2008 H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng mua bán số 116/2008/HĐMB với Công ty I do K, Giám đốc mua tàu Q trị giá 92.950.000.000 đồng. Từ ngày 29/12/2008 đến ngày 25/02/2009, Công ty A đã chuyển đủ 92.950.000.000 đồng cho Công ty I. Ngày 16/02/2009, Công ty I đã bàn giao tàu Q cho Công ty TNHH D.
Tại thời điểm ký hợp đồng cho thuê tài chính, Công ty TNHH D không đủ điều kiện cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật, H vẫn chỉ đạo lập các thủ tục và ký hợp đồng cho thuê tài chính. Công ty A đã không yêu cầu bên thuê đặt cọc, ký cược ngay sau khi ký hợp đồng. Việc này trái với khoản 6 Điều 23vàĐiều 24, Điều 26 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, khoản 6, Điều 23 quy định bên cho thuê có quyền“Yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính…”. Điều 24, Điều 26 quy định nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê “Thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng”. Trái điểm 2.2 Mục I và 8.1 Mục I, Trái khoản 10.2 Thông tư 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn một số nội dung hoạt động cho thuê tài chính, quy định về thẩm định và quyết định cho thuê tài chính, quy định về nội dung điều kiện hợp đồng: “Công ty cho thuê tài chính xem xét quyết định cho thuê tài chính đối với bên thuê trên cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống, các điều kiện về cho thuê tài chính và khả năng trả nợ của bên thuê”. Về điều kiện cho thuê bên thuê phải có đủ các điều kiện “ Có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống khả thi, hiệu quả phù hợp với quy định của pháp luật và sử dụng tài sản thuê để thực hiện dự án đó; Có khả năng tài chính đảm bảo thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê đã cam kết”.
Vi phạm khoản 1 Điều 14 Quy định nghiệp vụ cho thuê tài chính của Ngân hàng B về quy định về lập hồ sơ cho thuê tài chính đối với khách hàng ban hành kèm Quyết định số 90/2002/HĐQT-QĐ ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B.
Đối với Công ty TNHH D sau khi ký Hợp đồng số 116/08/HĐ được thuê tàu Q công ty hoạt động theo đúng mục đích thuê tàu phục vụ cho hoạt động hợp pháp của công ty. Ngày 07/8/2010, L, làm thủ tục tại Sở Kế hoạch, Đầu tư thành phố Hải Phòng chuyển nhượng quyền sở hữu Công ty cho S làm Giám đốc, người đại diện pháp luật của Công ty TNHH D. Ngày 15/10/2010 đã lập văn bản bàn giao Công ty cho S, đứng danh Giám đốc công ty. S cam kết chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 116/2008/HĐMB với dư nợ gốc 89.647.000.000đồngvà nhận trả nợ Công ty A thay cho L tiền thuê tài chính 19.545.687.546đồng, tổng cộng: 109.192.687.546 đồng.
Sau khi tiếp nhận Công ty TNHH D, quá trình khai thác tàu Q, S, Giám đốc công ty đã không thực hiện đúng các điều kiện cam kết của Hợp đồng số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 được quy định tại Phụ lục số 4B/CTTC kèm hợp đồng về việc trả tiền gốc và lãi tiền thuê theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính cho Công ty A. Cụ thể: Số kỳ trả nợ là 29 kỳ, trong đó số tiền gốc trả kỳ đầu là 50.000.000 đồng, số tiền gốc trả kỳ cuối là 127.000.000 đồng nhưng S chỉ trả Công ty A được 50.000.000 đồng.
Quá trình điều hành công ty và khai thác tàu Q, tháng 01/2012 S, đại diện Công ty TNHH D ký hợp đồng với Công ty O vận chuyển gạo từ Indonesia đi Thái Lan. Sau khi nhận tiền vận chuyển, S không thực hiện đúng hợp đồng với chủ hàng, đã bỏ mặc tàu và hàng tại Cảng ở Indonesia từ ngày 09/5/2012. Ngày 03/10/2012, Tòa án tại BangKok, Thái Lan có Lệnh bắt giữ tàu Q vì sau khi nhận tiền vận chuyển, S không thực hiện hợp đồng đưa tàu hàng về Thái Lan, sử dụng tiền cho cá nhân và trả nợ hết số tiền này. Chủ hàng đã phải ứng tiền để đưa tàu về Thái Lan, sau đó yêu cầu Chủ tàu là Công ty TNHH D phải thanh toán các khoản nợ. S không thanh toán được và bỏ mặc tàu Q tại Cảng ở Indonesia. Vì không đủ khả năng tài chính để trả nợ chủ hàng, S đã có nhiều văn bản đề nghị Công ty A đàm phán với chủ hàng tại Thái Lan để giải cứu tàu Q. Công ty A đã phải chuyển 6.558.866.688 đồng để giải cứu tàu. Số tiền này S cam kết trả Công ty A, nhưng sau khi Công ty A giải cứu tàu Q về Việt Nam và có văn bản yêu cầu S phải thanh toán các khoản nợ Công ty A, S thoái thác trách nhiệm không liên lạc, bỏ trốn khỏi nơi cư trú nhằm trốn tránh việc trả nợ Công ty A. Ngày 28/12/2012, Công ty A thông báo chấm dứt Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ đối với Công ty TNHH D. Ngày 29/3/2013 Công ty A phát mại đấu giá bán tàu Q để thu hồi vốn được 11.793.600.00 đồng. Đối với Hợp đồng số 116/08/HĐ, tính đến ngày 05/02/2013 (thời điểm Công ty A phát mại đấu giá bán tàu Q) Công ty TNHH D do S làm giám đốc còn nợ Công ty A nợ gốc 89.622.000.000 đồng, nợ lãi 57.584.257.368 đồng, dư nợ này thuộc nhóm 5 có khả năng mất vốn.
Tại Kết luận giám định ngày 18/9/2015, Giám định viên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định sai phạm tại Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 ký giữa Công ty A với Công ty TNHH D trái với quy định của Nhà nước về cho thuê tài chính, gây thiệt hại tài sản Nhà nước 147.206.257.368 đồng (chưa trừ chi phí xử lý tàu và các khoản tiền ký cược, thuế đầu vào) tính đến thời điểm Công ty A thu hồi tàu Q, sau khi trừ các khoản này thiệt hại thực tế là 134.477.990.258 đồng.
2.2. Hợp đồng số 119 /08/HĐ ngày 28/11/2008, cho Công ty TNHH E thuê tài chính tàu Đ:
Ngày 04/11/2008, G, Giám đốc Công ty TNHH E ký văn bản và trình dự án đề nghị Công ty A cho thuê tài chính tàu Đ. Tàu này do Công ty đóng tàu Đại Dương là nhà cung ứng, trọng tải 4332,3 tấn trị giá 94.453.049.700 đồng. Sau khi nhận được hồ sơ xin thuê tàu, biết công ty này không đủ điều kiện thuê tài chính, H vẫn phê duyệt văn bản và dự án đề nghị xin thuê tài chính tàu Đ. Hảo đã chỉ đạo T, Phó tổng giám đốc và X, Trưởng phòng cho thuê chỉ đạo cán bộ phòng cho thuê tiếp xúc với khách hàng để làm các thủ tục cho thuê. H cũng đã thông báo cho Tài và Nghị biết Công ty TNHH E không đủ điều kiện thuê tài chính. Thực hiện chỉ đạo của H, Giám đốc Công ty A, X và V đã chỉ đạo và giao cho C, cán bộ Phòng cho thuê nghiên cứu, thẩm định dự án và hồ sơ xin thuê tàu của Công ty TNHH E. Theo chỉ đạo của X và V, ngày 24/11/2008, C tiến hành nghiên cứu thẩm định hồ sơ cho thuê của Công ty TNHH E, trước khi thẩm định C biết việc thẩm định cho thuê tài chính chỉ là thủ tục, khi nghiên cứu hồ sơ thấy Công ty TNHH E không đủ năng lực tài chính, dự án thuê không khả thi, số liệu trong hồ sơ đề nghị xin thuê không đầy đủ, không đủ điều kiện để thuê tài chính, nhưng theo chỉ đạo của X và V thì C vẫn hướng dẫn Công ty TNHH E lập hồ sơ xin thuê, S đã lập, ký Báo cáo thẩm định và đề nghị duyệt cho thuê tài chính đối với Công ty TNHH E. Báo cáo thẩm định đã được V, Phó phòng cho thuê, Tổ phó tổ tàu biển ký duyệt với nội dung: doanh nghiệp đủ khả năng thuê tài chính và thanh toán tiền thuê, đề xuất cho thuê tàu. Thực hiện quy trình cho thuê, ngày 28/11/2008 Công ty A đã họp Hội đồng cho thuê gồm có: H, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng, T, Phó tổng giám đốc, X, Trưởng phòng cho thuê, U, Kế toán trưởng (phụ trách nguồn vốn), C, cán bộ thẩm định và Y, Thư ký Hội đồng cho thuê đã đồng ý 100% cho Công ty TNHH E thuê tàu Đ. Việc các thành viên Hội đồng cho thuê họp biểu quyết đồng ý cho Công ty TNHH E thuê tàu là thực hiện theo chủ trương và chỉ đạo của H nhằm để Công ty TNHH E được thuê tàu Đ.
Ngày 28/11/2008, Công ty A do H, Tổng giám đốc ký Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ và các Phụ lục hợp đồng cho Công ty TNHH E thuê tài chính tàu Đ, trị giá: 94.453.049.700 đồng (bao gồm thuế VAT, phí đăng kiểm, phí bảo hiểm, lệ phí trước bạ), lãi suất 1,375%/tháng, có thay đổi khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi lãi suất cơ bản; thời hạn thuê là 180 tháng; định kỳ 06 tháng phải trả nợ gốc và nợ lãi một lần với định mức cụ thể quy định tại Điều 14 và Phụ lục 4B kèm theo hợp đồng; Công ty TNHH E phải nộp đủ tiền đặt cọc, ký cược cho Công ty A số tiền là 9.446.000.000 đồng sau khi ký hợp đồng, nhưng đến ngày 07/5/2009, Công ty TNHH E mới nộp đủ số tiền đặt cọc, ký cược, quá hạn gần 5 tháng tính từ ngày ký hợp đồng. Hợp đồng này chưa được đăng ký, cung cấp thông tin tại Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Thực hiện Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ, ngày 28/11/2008 H, Tổng giám đốc Công ty A ký Hợp đồng mua bán số 119/2008/HĐMB với Công ty đóng tàu Đại Dương do Lê Đoàn Tám, Giám đốc mua tàu Đ trị giá 92.953.049.700 đồng. Công ty A đả trả đủ tiền mua tàu. Ngày 29/4/2009, Công ty đóng tàu Đại Dương cho Công ty TNHH E.
Tại thời điểm ký hợp đồng cho thuê tài chính, Công ty TNHH E, không đủ điều kiện cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật, H vẫn chỉ đạo lập các thủ tục và ký hợp đồng cho thuê tài chính. Công ty A đã không yêu cầu bên thuê đặt cọc, ký cược ngay sau khi ký hợp đồng. Việc này trái với: Điều 19 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính (đã được sửa đổi bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ), quy định về đăng ký cung cấp thông tin về hợp đồng cho thuê tài chính; trái khoản 6 Điều 23vàĐiều 24, Điều 26 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, khoản 6, Điều 23 quy định bên cho thuê có quyền “Yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính…”. Điều 24, Điều 26 quy định nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê “Thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng”. Trái điểm 2.2 Mục I và 8.1 Mục I; Trái khoản 10.2 Thông tư 05/2006/TT-NHNN ngày 25/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn một số nội dung hoạt động cho thuê tài chính, quy định về thẩm định và quyết định cho thuê tài chính, quy định về nội dung điều kiện hợp đồng: “Công ty cho thuê tài chính xem xét quyết định cho thuê tài chính đối với bên thuê trên cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống, các điều kiện về cho thuê tài chính và khả năng trả nợ của bên thuê”. Về điều kiện cho thuê bên thuê phải có đủ các điều kiện “ Có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống khả thi, hiệu quả phù hợp với quy định của pháp luật và sử dụng tài sản thuê để thực hiện dự án đó; Có khả năng tài chính đảm bảo thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê đã cam kết”.
Vi phạm khoản 1 Điều 14 Quy định nghiệp vụ cho thuê tài chính của Ngân hàng B quy định về lập hồ sơ cho thuê tài chính đối với khách hàng ban hành kèm Quyết định số 90/2002/HĐQT-QĐ ngày 15/4/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng B.
Quá trình thực hiện hợp đồng thuê tài chính, ngày 28/3/2009 khi chưa nhận tàu Đ, G đã chuyển giao Công ty cho ông R làm Giám đốc để tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 119/08/HĐ. Ngày 08/4/2010, R, Giám đốc đã làm thủ tục tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng chuyển nhượng quyền sở hữu Công ty cho S làm Giám đốc, người đại diện pháp luật của Công ty TNHH E. Sau khi nhận chuyển giao công ty, S cam kết tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 119/08/HĐ với dư nợ gốc 89.730.049.700 đồng và nhận trả nợ Công ty A thay cho R tiền thuê tài chính 9.433.993.100 đồng, tổng cộng: 99.164.042.800 đồng.
Sau khi tiếp nhận Công ty TNHH E, quá trình khai thác tàu Đ, S, Giám đốc công ty đã không thực hiện đúng các điều kiện cam kết của Hợp đồng số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008, được quy định tại Phụ lục số 4B/CTTC kèm hợp đồng về việc trả tiền gốc và lãi tiền thuê theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính cho Công ty A, quy định cụ thể: Số kỳ trả nợ là 29 kỳ, trong đó số tiền gốc trả kỳ đầu là 50.000.000 đồng, số tiền gốc trả kỳ cuối là 127.000.000 đồng nhưng S chỉ trả Công ty A được 333.060.000 đồng. Công ty A đã nhiều lần thông báo nợ quá hạn và có các biên bản làm việc, Công ty TNHH E không trả được nợ thuê tài chính, bỏ mặc tàu Đ tại Cảng Hải Phòng. Ngày 09/5/2012, Công ty A có Thông báo số 1188/2012/-KD chấm dứt Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ trước hạn và ban hành Quyết định số 1189/2012/QĐ-KD thu hồi tài sản cho thuê tài chính là tàu Đ. Ngày 07/11/2012, Công ty A bán đấu giá tàu Đ thu hồi vốn được 21.400.000.000 đồng. Đối với hợp đồng này, tính đến ngày 15/8/2012, thời điểm thu hồi tàu Đ, Công ty TNHH E do S làm giám đốc còn nợ Công ty A, nợ gốc 89.730.049.700 đồng, nợ lãi 48.069.104.572 đồng, dư nợ này thuộc nhóm 5 có khả năng mất vốn.
Tại Kết luận giám định ngày 18/9/2015, Giám định viên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định sai phạm tại Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ ngày 18/11/2008 ký giữa Công ty A với Công ty TNHH E trái với quy định của Nhà nước về cho thuê tài chính, gây thiệt hại tài sản Nhà nước 137.799.154.272 đồng (chưa trừ chi phí xử lý tàu và các khoản tiền ký cược, thuế đầu vào) tính đến thời điểm Công ty A thu tàu Đ, sau khi trừ các khoản này thiệt hại thực tế là 110.340.898.308đồng.
Với hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Tuyên bố bị cáo S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 4 điều 140; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hHình sự,
Xử phạt S tù chung thân.
Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2014.
Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự,
-Buộc bị cáo S có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cho Công ty A thuộc Ngân hàng B số tiền là 251.387.755.234 (hai trăm năm mươi mốt tỷ ba trăm tám mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi lăm nghìn hai trăm ba mươi bốn) đồng.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/12/2015, bị cáo S có đơn kháng cáo với nội dung cho rằng không vi phạm và chịu trách nhiệm ở khoản tiền 117 tỷ đồng vì đây là quan hệ kinh tế của Doanh nghiệp với Công ty tài chính II mà chỉ sai phạm ở khoản tiền trên 1 tỷ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo S thay đổi 01 phần kháng cáo, kêu oan toàn bộ, cho rằng bị cáo không có chiếm đoạt tài sản của Công ty A như bản án sơ thẩm đã quy kết.
Quan điểm của Kiểm sát viên lập luận rằng: Trong quá trình khai thác 02 con tàu (tàu W và tàu Đ) đã có doanh thu, với số tiền chứng minh được bằng 32.295.702.417đ và 309.643,88 USD; nhưng bị cáo S cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho Công ty A theo như cam kết tại các hợp đồng C116/08/HĐ ngày 18/11/2008; hợp đồng số 119/08/CHĐ ngày 28/11/2008, mà có hành vi bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền trên cùng với khoản tiền 1.061.062.800đdo Công ty A bỏ ra trả nợ Công ty O thay cho S để giải cứu tàu đưa về Việt Nam (nằm trong số tiền 6.588.866.688đ). Nên bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo S phạm tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 là không oan; do Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chỉ 20 năm tù; áp dụng theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, nên đề nghị sửa án sơ thẩm xử phạt bị cáo S mức án 20 năm tù. Đối với phần trách nhiệm dân sự bản án sơ thẩm buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A số tiền 251.387.755.234đ là có căn cứ, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này. Đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ trách nhiệm của những người có liên quan đến khoản tiền nợ của Công ty A với số tiền bằng 28.979.680.546đ, trước khi bàn giao 02 con tàu lại cho bị cáo S.
Quan điểm bào chữa của Luật sư cho rằng: số tiền 118.126.097.139đ bản án sơ thẩm qui kết trách nhiệm hình sự đối với bị cáo S là số tiền do 02 pháp nhân của Công ty TNHH D và Công ty TNHH E nợ Công ty A; bị cáo S chỉ là người đại diện theo pháp luật của 02 công ty trên mà thôi. Tại các hợp đồng cho thuê tài chính 116, 119 ký kết giữa Công ty A với các pháp nhân Công ty TNHH D và Công ty TNHH E tài sản là 02 con tàu; 02 con tàu này S không chiếm đoạt (02 tàu đã được Công ty A thu hồi phát mãi). Trước và sau khi tàu bị thu hồi S không có bỏ trốn như bản án sơ thẩm quy kết; bởi khi con tàu Q bị phía Thái Lan bắt giữ S vẫn liên tục đề nghị Công ty A hỗ trợ giải cứu tàu; Đồng thời vào tháng 10/2012 S đã tổ chức lễ cưới tại Thành phố Hải Phòng với trên 200 người tham gia và S có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, bị cáo, nguyên đơn dân sự.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Vào các ngày 08/4/2010 và 07/8/2010 giữa R, Giám đốc Công ty TNHH E; L, Giám đốc Công ty TNHH D làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu 02 Công ty trên cho S làm Giám đốc, người đại diện theo pháp luật. Đồng thời, S đã cam kết thực hiện các nghĩa vụ trả nợ đối với các dự án thuê tài chính tàu Q và tàu Đ. Cụ thể, Hợp đồng cho thuê tài chính số 116/08/HĐ ngày 18/11/2008 đang còn nợ Công ty A 109.192.687.546 đồng, trong đó dư nợ gốc 89.647.000.000 đồng và L nợ tiền thuê tài chính 19.545.687.546 đồng. Hợp đồng cho thuê tài chính số 119/08/HĐ ngày 28/11/2008 đang còn nợ Công ty A 99.164.042.800 đồng, trong đó dư nợ gốc 89.730.049.700 đồng và R nợ tiền thuê tài chính 9.433.993.100 đồng. Xét thấy, việc thay đổi giám đốc và người đại diện của hai công ty trên đã được Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hải Phòng chấp thuận; việc chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu 02 công ty trên của R và L cho S là hợp pháp, nên S phải có nghĩa vụ cá nhân thanh toán tiền thuê tàu trong thời gian nhận và sử dụng, khai thác 02 con tàu (tàu W và tàu Đ) cho Công ty A với số tiền 89.146.416.493 đồng; nhưng S đã thanh toán được 383.060.000 đồng, do đó S còn phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A số tiền thuê tài chính theo định kỳ là 89.108.110.493 đồng như bản án sơ thẩm xác định là có căn cứ. Tuy nhiên, ngoài khoản tiền trên bản án sơ thẩm còn quy kết S phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với số tiền nợ của R và L trước khi S nhận 02 con tàu bằng 28.979.680.546 đồng là chưa hợp lý, bởi việc trả số tiền trên còn có trách nhiệm của R và L.
Xét khoản tiền 89.146.416.493 đồng mà S có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A có chiếm đoạt không và số tiền chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu? Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư cho rằng S không có chiếm đoạt tài sản là 02 con tàu. Nhưng đối với số tiền doanh thu, lợi nhuận mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng (32.295.702.417 đồng và 309.643,88 USD), đây là số tiền hiện hữu và được xem là tài sản, nhưng S không dùng số tiền này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả tiền thuê tài chính cho Công ty A mà sử dụng cho mục đích cá nhân là đã có ý thức chiếm đoạt số tiền trên.
Xét ý kiến của luật sư bào chữa cho rằng S không bỏ trốn, vì khi tàu Q bị phía Thái Lan bắt giữ, S vẫn liên tục đề nghị Công ty A hỗ trợ giải cứu tàu; đồng thời vào tháng 10/2012 S đã tổ chức lễ cưới vợ tại thành phố Hải Phòng có nhiều người chứng kiến và có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh là không có căn cứ chấp nhận, bởi vào thời điểm tháng 10/2012 S chưa bỏ trốn, thời điểm bỏ trốn được xác định từ tháng 03/2013, cụ thể: căn cứ vào các biên bản xác minh từ tháng 03/2013 đến tháng 8/2013 S không có mặt ở nơi tạm trú, nơi thường trú, nơi đăng ký kinh doanh…. và trong quá trình điều tra rất nhiều lời khai S thừa nhận đã bỏ trốn. Mặc khác, tại phiên tòa sơ thẩm S thừa nhận đã nhiều lần nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nợ của Công ty A nhưng S vẫn lánh mặt không hợp tác. Đối với việc S có đăng ký tạm trú tại Công an Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 9/2013, đây là thời điểm sau khi S bị bắt theo Lệnh truy nã và được cho bảo lãnh tại ngoại.
Như đã phân tích trên, đủ căn cứ kết luận S đã thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty A với số tiền phải chịu trách nhiệm hình sự là 39.822.129.431 đồng (trong đó gồm số tiền mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng và số tiền 1.061.062.800 đồng do Công ty A bỏ ra trả nợ Công ty O thay cho S để giải cứu tàu đưa về Việt Nam nằm trong số tiền 6.588.866.688 đồng). Với số tiền S phải chịu trách nhiệm hình sự bằng 39.822.129.431 đồng, nên bản án hình sự sơ thẩm tuyên bố S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 và xử phạt bị cáo mức án tù chung thân là chưa tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi hậu quả gây ra. Đối chiếu với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là 20 năm tù. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội. Sửa bản án sơ thẩm theo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nên không chấp nhận kháng cáo kêu oan của S.
Xét phần trách nhiệm dân sự mà bản án sơ thẩm buộc S có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A số tiền 251.387.755.234 đồng (trong đó có số tiền 28.979.680.546 đồng mà R và L nợ Công ty A trước khi S nhận 02 con tàu) là chưa phù hợp, bởi lẽ số tiền này có liên quan đến phần trách nhiệm của R và L. Vì vậy cần hủy một phần bản án sơ thẩm về phần này, tách giao cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ đối với những người có liên quan để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Do hủy một phần bản án sơ thẩm trong phần trách nhiệm dân sự đối với số tiền 28.979.680.546 đồng nên sửa một phần án phí dân sự có giá ngạch đối với S.
Bị cáo S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
1. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với phần hình phạt của bị cáo S.
- Tuyên bố: Bị cáo S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng khoản 4 Điều 140, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo S 20 (hai mươi năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2014.
2. Hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm số 427/2015/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm dân sự đối với số tiền 28.979.680.546 đồng (trong số tiền 251.387.755.234 đồng mà bản án sơ thẩm buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cho Công ty A thuộc Ngân hàng B).
Phần này tách giao cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ đối với những người có liên quan để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
3. Áp dụng điều 42 Bộ luật hình sự.
Buộc bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty A thuộc Ngân hàng B số tiền 222.308.074.688đ.
4. Về án phí: Bị cáo S phải nộp 330.308.075đ tiền án phí dân sự có giá ngạch.
5. Các phần khác của Quyết định bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Xét khoản tiền 89.146.416.493 đồng mà S có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A có chiếm đoạt không và số tiền chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu? Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư cho rằng S không có chiếm đoạt tài sản là 02 con tàu. Nhưng đối với số tiền doanh thu, lợi nhuận mà S có được từ việc sử dụng, khai thác 02 con tàu bằng 38.761.066.631 đồng (32.295.702.417 đồng và 309.643,88 USD), đây là số tiền hiện hữu và được xem là tài sản, nhưng S không dùng số tiền này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả tiền thuê tài chính cho Công ty A mà sử dụng cho mục đích cá nhân là đã có ý thức chiếm đoạt số tiền trên.”
(nguồn Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn))
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc (Mã vụ việc: AD19)
Ngày 01/04/2025, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 914/QĐ-BCT về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Hàng hóa bị áp thuế có mã HS:
7210.41.11, 7210.41.12, 7210.41.19, 7210.49.11, 7210.49.14, 7210.49.15, 7210.49.16, 7210.49.17, 7210.49.18, 7210.49.19, 7210.50.00, 7210.61.11, 7210.61.12, 7210.61.19, 7210.69.11, 7210.69.19, 7210.90.10, 7210.90.90, 7212.30.11, 7212.30.12, 7212.30.13, 7212.30.14, 7212.30.19, 7212.50.14, 7212.50.19, 7212.50.23, 7212.50.24, 7212.50.29, 7212.50.93, 7212.50.94, 7212.50.99, 7212.60.11, 7212.60.12, 7212.60.19, 7225.92.90, 7226.99.11, 7226.99.91
Mức thuế tạm thời
Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc: Lên tới 37,13%
Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Hàn Quốc: Lên tới 15,67%
Vụ việc trước được khởi xướng điều tra bởi các doanh nghiệp:
- Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen
- Công ty CP Thép Nam Kim
- Công ty Tôn Phương Nam
- Công ty CP Tôn Đông Á
- Công ty CP China Steel Sumikin
- Nippon Steel Việt Nam
Xem và tải Quyết định số 914/QĐ-BCT tại đây: https://caselaw.vn/van-ban-phap-luat/411431-quyet-dinh-so-914-qd-bct-cua-bo-truong-bo-cong-thuong-ap-dung-thue-chong-ban-pha-gia-tam-thoi-doi-voi-mot-so-san-pham-thep-ma-co-xuat-xu-tu-cong-hoa-nhan-dan-trung-hoa-va-dai-han-dan-quoc
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Kỹ năng nghề luật có được từ thời thực tập – hành trang giúp sự nghiệp về sau của bạn dù chưa ai từng kể
Không ai bắt đầu nghề luật bằng những bản hợp đồng triệu đô hay những phiên tranh tụng căng thẳng. Đã bao giờ bạn ao ước, ngay sau khi tốt nghiệp, sẽ được tham gia những công việc “chuyên môn cao” như tư vấn pháp lý, soạn thảo hợp đồng, hay trực tiếp tranh tụng tại tòa?
Thực tế thường không màu hồng đến vậy.
Hầu hết đều khởi đầu từ một góc bàn nhỏ, vài tập hồ sơ dày cộp, và những công việc không tên. Những ngày đầu thực tập hoặc mới đi làm thường gắn liền với việc in tài liệu, sắp xếp hồ sơ, gửi công văn, hỗ trợ làm slide báo giá… Toàn những việc có vẻ nhàm chán, tưởng chừng không mấy liên quan đến kiến thức đã học ở trường – và càng khác xa hình ảnh luật sư mặc vest chỉnh tề, lập luận sắc bén như trên phim ảnh.
Nhưng chính trong những công việc tưởng chừng tẻ nhạt đó, sự khác biệt giữa người thành công và người không thành đã bắt đầu manh nha hình thành. Có người làm cho xong, cũng có người coi đó là cơ hội để học nghề từ những điều nhỏ nhất. Cũng từ đó, những kỹ năng nghề luật cho sự nghiệp sau này dần được đặt nền móng.
1. “Không chọn việc” khi thực tập
Có được cơ hội thực tập tại các công ty luật, văn phòng luật sư là một niềm may mắn đối với các bạn sinh viên. Không phải ai cũng được giao ngay những công việc “có tên” trong giai đoạn thực tập. Trên thực tế, phần lớn thực tập sinh sẽ bắt đầu với những đầu việc rất cơ bản: in tài liệu, đi công chứng, đóng dấu hồ sơ, hỗ trợ chuẩn bị cuộc họp, hoặc đơn giản là... đi giao tài liệu cho khách hàng.
Những công việc đó thường không hào nhoáng, không tạo ra cảm giác được làm việc như những luật sư mà bạn có thể kỳ vọng. Tuy nhiên, cách mỗi người tiếp nhận những đầu việc ấy lại là dấu hiệu rõ ràng về tinh thần học hỏi và thái độ nghề nghiệp.
Việc đi giao tài liệu – thoạt nhìn là một đầu việc hành chính thuần túy tưởng như chẳng liên quan gì đến chuyên môn luật. Nhưng nếu nhìn từ góc độ của một người hành nghề thực sự, đây là công việc đòi hỏi sự cẩn trọng, chủ động và kỹ năng xử lý tình huống thực tế.
Trước khi giao tài liệu, thực tập sinh cần kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ: đúng loại tài liệu, đúng số lượng, đúng phiên bản cần giao (bản công chứng hay là bản gốc) kèm theo biên bản bàn giao được soạn sẵn. Cần xem thời gian giao có gấp không, tài liệu có phục vụ cho cuộc họp hay thủ tục nào quan trọng không. Đến khâu di chuyển – cần xem bản đồ, định tuyến đường đi, tránh tắc đường hoặc đến sai địa điểm.
Tại nơi giao, phải xác định đúng người nhận, đúng bộ phận. Chỉ một sơ suất như giao sai người, nhầm phòng ban hoặc làm thất lạc tài liệu cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ công việc, thậm chí làm phát sinh trách nhiệm không đáng có.
Và chính trong vài phút ngắn ngủi khi gặp khách hàng, một thực tập sinh hoàn toàn có thể học được nhiều kỹ năng quan trọng: từ cách giao tiếp lịch sự, giữ tác phong chuẩn mực, đến việc quan sát văn hóa doanh nghiệp và rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống nhỏ nhưng thực tế.
Hay như việc trả lời các tình huống pháp lý thực tế trên các diễn đàn pháp luật – từng là kênh phổ biến trước khi mạng xã hội phát triển. Trước khi được tin tưởng giao xử lý một vụ việc thực tế, hãy tập trả lời các câu hỏi thực tế trên diễn đàn – nơi mọi người đăng các tình huống thường gặp: từ tranh chấp đất đai, lao động, đến hợp đồng dân sự. Tự đọc, tự tra cứu, tự suy nghĩ, và gõ lại từng dòng giải thích cho người ta hiểu. Cách làm này giúp bạn rèn luyện khả năng nghiên cứu, trình bày bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu – và quan trọng nhất là hình thành tư duy pháp lý thực tiễn.
“Không chọn việc” không có nghĩa là làm tất cả. Mà là làm bất kỳ việc gì được giao với tinh thần học nghề nghiêm túc. Chính những điều đó tạo nên bản lĩnh nghề nghiệp mà không lớp học nào có thể dạy. Kỹ năng nghề luật bắt đầu hình thành một cách tự nhiên: quan sát tốt hơn, xử lý linh hoạt hơn, và sẵn sàng hơn để tiếp nhận những công việc khó hơn trong tương lai.
2. Sắp xếp tài liệu
2.1 Việc nhỏ dạy tư duy lớn
Sắp xếp tài liệu là một trong những đầu việc quen thuộc nhất mà thực tập sinh thường được giao trong những ngày đầu tiên. Công việc này có thể bao gồm: dán nhãn, bấm lỗ, kẹp vào bìa, in mục lục, đánh số trang. Ở mức phức tạp hơn là phân loại tài liệu theo nhóm: hồ sơ hành chính, chứng cứ, văn bản trao đổi giữa các bên, hợp đồng, công văn từ cơ quan nhà nước, thư khiếu nại, bản án, quyết định, v.v... Sau đó là bước sắp xếp theo trình tự thời gian, theo tiến trình vụ việc, hoặc theo logic nội dung.
Nhìn qua, đây có vẻ là công việc thuần hành chính, mang tính hỗ trợ, không đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu. Nhưng nếu tiếp cận đúng cách, đây lại là bài học đầu tiên về tư duy hệ thống trong nghề luật. Tại sao?
Tài liệu trong một vụ việc pháp lý có thể lên đến vài trăm trang: hợp đồng, phụ lục, email trao đổi, công văn, biên bản làm việc, thư khiếu nại, đơn khởi kiện, chứng cứ, văn bản tố tụng, đến cả bản án cũ có liên quan. Trong quá trình sắp xếp, thực tập sinh có cơ hội tiếp cận toàn bộ sự kiện của một vụ việc.
Nếu nghĩ rằng công việc này chỉ dừng lại ở mức xếp cho gọn gàng thì bạn đã bỏ lỡ một cơ hội rất đáng giá để học hỏi thực tế. Hãy cầm lại bộ hồ sơ trên tay, cố gắng đọc – hiểu – và hình dung lại bối cảnh pháp lý đang diễn ra trong vụ việc đó. Làm kỹ khâu này sẽ giúp bạn nhận ra mối quan hệ giữa các bên, trình tự diễn biến sự việc, các vấn đề pháp lý phát sinh, và đâu là tài liệu mấu chốt cần lưu ý.
2.1 Lật từng trang tài liệu và đọc kỹ
Bí kíp ở đây là: lật từng trang tài liệu và đọc kỹ. Sẽ có nhiều thông tin mà bạn chưa từng được học trên lớp. Đó có thể là cách luật sư đánh dấu, gạch chân, ghi chú bên lề – những dấu vết thể hiện rõ tư duy phân tích và xử lý vấn đề trong từng vụ việc. Đây là những thứ bạn có thể học được, dù không ai trực tiếp chỉ cho bạn.
- Mỗi loại tài liệu có giá trị pháp lý ưu tiên khác nhau, nên cần được phân nhóm phù hợp: nhóm làm căn cứ pháp lý, nhóm là tài liệu nội bộ, nhóm để chứng minh hành vi…
- Thời gian là yếu tố quan trọng: sắp xếp theo trình tự thời gian sẽ giúp nhìn rõ tiến trình tranh chấp hoặc diễn biến của toàn bộ vụ việc.
- Cách lưu file cũng không kém phần quan trọng: chỉ cần đặt tên file đúng chuẩn và lưu đúng thư mục, bạn có thể tiết kiệm được đáng kể tra cứu – thậm chí còn giúp người khác làm việc nhanh hơn.
Nhờ việc nắm rõ cấu trúc hồ sơ do chính mình sắp xếp, bạn sẽ giúp luật sư phụ trách tìm được văn bản quan trọng trong thời gian ngắn. Đó là một khoảnh khắc nhỏ – nhưng là lúc bạn nhận ra mình thật sự đang góp phần vào công việc, không chỉ đơn thuần nghĩ rằng mình làm việc vặt.
2.3 Ứng dụng vào tranh tụng và M&A
Về sau này, kỹ năng sắp xếp và đọc hiểu tài liệu trở thành nền tảng quan trọng trong nhiều công việc chuyên môn.
- Trong tranh tụng, luật sư phải xử lý hàng trăm trang hồ sơ để tái dựng lại vụ việc, xác định chứng cứ chính, và xây dựng hệ thống lập luận rõ ràng, logic.
- Trong M&A, việc rà soát hồ sơ pháp lý (legal due diligence) đòi hỏi khả năng phân loại tài liệu, đối chiếu thông tin, phát hiện rủi ro từ những chi tiết nhỏ nhất – điều mà chỉ ai quen làm việc với tài liệu mới đủ nhạy để xử lý hiệu quả.
- Trong tư vấn nội bộ, việc kiểm soát và truy xuất tài liệu nhanh chóng giúp đưa ra quyết định chính xác và kịp thời, nhất là trong các tình huống cần phản ứng nhanh với rủi ro pháp lý.
Sắp xếp tài liệu là bước đầu để hình thành tư duy xử lý thông tin – một kỹ năng cốt lõi trong hành nghề luật, và là nền móng để xử lý những công việc phức tạp hơn trong tương lai.
3. Khi slide báo giá không chỉ là thiết kế
Trong các công ty luật, khi tiếp nhận một yêu cầu tư vấn hoặc xử lý vụ việc từ khách hàng, luật sư điều hành hoặc phụ trách thường sẽ yêu cầu bộ phận chuyên môn chuẩn bị một slide báo giá (proposal).
Đây là tài liệu giới thiệu tóm tắt vụ việc, đề xuất phương án xử lý, phạm vi công việc sẽ thực hiện, nhân sự phụ trách, thời gian dự kiến và mức phí tương ứng. Tài liệu này thường được gửi cho khách hàng như một bước mở đầu trước khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Việc làm slide báo giá tuy không trực tiếp giải quyết vấn đề pháp lý, nhưng lại là một phần trong quy trình làm việc chuyên nghiệp. Nó giúp khách hàng hiểu cách tiếp cận của luật sư, đánh giá năng lực xử lý, và đưa ra quyết định hợp tác.
Một ngày tình cờ, bạn được luật sư nhờ hỗ trợ chỉnh slide báo giá. Hãy xem đó là cơ hội để quan sát cách luật sư tiếp cận và xử lý một vụ việc thực tế.
Cách tiếp cận đơn giản là dựa vào bản memo hoặc email đã được soạn trước, rồi chuyển nội dung sang slide PowerPoint. Nhưng nếu chỉ “copy – paste” nguyên văn vào slide thì họ không nhờ bạn làm gì. Người làm slide cần hình dung ra tình huống, từ đó chọn lọc nội dung cần thiết, sắp xếp lại cho ngắn gọn, rõ ràng và đúng trọng tâm. Việc này buộc bạn phải suy nghĩ như một người đang trực tiếp xử lý vụ việc.
Không ai bắt bạn làm slide màu mè. Nhưng một file trình bày rõ ràng, sạch sẽ, đúng ngữ pháp, bố cục hợp lý là dấu hiệu cho thấy bạn có tư duy trình bày tốt – và có khả năng truyền đạt vấn đề pháp lý phức tạp thành thông tin dễ hiểu.
Từ việc làm slide, bạn sẽ dần hình thành thói quen tư duy theo cấu trúc: ngắn – gọn – rõ, không lan man, không vòng vo. Kỹ năng này sẽ được dùng trong nhiều đầu việc chuyên môn của luật sư cấp cao về sau như:
- Chuẩn bị bài trình bày cho buổi họp với khách hàng;
- Tham gia pitching cho thương vụ mới;
- Thuyết trình nội bộ với đội pháp chế doanh nghiệp.
Những gì bạn học được từ việc làm slide khi thực tập sẽ giúp bạn chuyên nghiệp hơn, và tự tin hơn trong mắt khách hàng.
Suy cho cùng, nghề luật là nghề truyền đạt chính xác, mạch lạc và thuyết phục.
4. Cuối cùng
Ba kỹ năng trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ trong hành trình học nghề luật từ những ngày đầu thực tập. Còn rất nhiều kỹ năng khác mà một thực tập sinh có thể học được nếu biết quan sát, lắng nghe và chủ động tiếp cận công việc.
Mỗi công việc được giao – dù là nhỏ nhất – đều có thể trở thành một “điểm rơi” để bạn rèn luyện sự cẩn trọng, tư duy hệ thống, khả năng truyền đạt, kỹ năng tổ chức và phối hợp trong môi trường làm việc chuyên nghiệp.
Những người hành nghề luật vững vàng không phải lúc nào cũng bắt đầu từ những việc lớn. Họ chỉ đơn giản là không bỏ lỡ cơ hội học từ những việc nhỏ.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Chọn thời điểm nộp đơn khởi kiện: Sự khác biệt giữa thắng và bại trong tranh tụng
Trong hành trình tranh tụng, việc nộp đơn khởi kiện không đơn thuần là một thủ tục pháp lý. Đó là một bước đi mang tính chiến lược có thể định hình toàn bộ cục diện vụ việc. Việc chọn đúng thời điểm khởi kiện giống như ra khơi vào thời điểm thuận lợi: biết mình sắp đối mặt với sóng to, gió lớn và sẵn sàng ứng phó với mọi kịch bản.
Thời gian là yếu tố sống còn
Một bên có thể yếu thế hơn trong nhiều khía cạnh, nhưng nếu biết chờ đúng thời cơ – khi chứng cứ đã được thu thập đầy đủ, hồ sơ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng và có đủ cơ sở pháp lý – thì khả năng thành công sẽ cao hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu hành động vội vàng khi chưa nắm chắc toàn bộ yếu tố pháp lý và thực tiễn thì chỉ tự đẩy mình vào thế bất lợi trước tòa.
Chuẩn bị kỹ lưỡng là điều không thể thiếu
Một luật sư giỏi không chỉ biết chọn đúng thời điểm mà còn phải chuẩn bị như một chiến lược gia. Mỗi văn bản, mỗi chứng cứ cần được đánh giá và kiểm tra kỹ lưỡng để không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào. Từng bước đi đều cần được lên kế hoạch chi tiết nhằm đảm bảo chúng ta luôn ở thế chủ động khi đối diện với đối phương.
Nghề luật: Không chỉ là biện hộ mà còn là chiến lược
Biện hộ là kỹ năng quan trọng trong nghề luật nhưng chưa đủ để làm nên một luật sư giỏi. Muốn đi xa với nghề, người làm nghề luật cần có khả năng nhìn xa, trông rộng, biết nắm bắt và kiểm soát mọi yếu tố vận động trong vụ việc. Luật sư thành công không đơn thuần dựa vào kiến thức mà chính là nhờ sự tỉnh táo và nhạy bén trong từng quyết định – đặc biệt là quyết định về thời điểm hành động.
Thông điệp gửi đến những người làm công tác pháp chế
Đặc biệt, đối với những bạn đang làm pháp chế tại các doanh nghiệp, việc lựa chọn thời điểm khởi kiện càng đòi hỏi sự tỉnh táo và bản lĩnh. Đôi khi, bạn cần biết cách giải thích và vượt qua áp lực từ cấp trên để có thêm thời gian thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ và chọn đúng thời điểm chín muồi nhằm giành lấy ưu thế ban đầu. Chỉ khi đó, bạn mới thực sự đảm đương đúng vai trò của một “luật sư nội bộ” – người bảo vệ lợi ích doanh nghiệp bằng sự kết hợp giữa kiến thức pháp lý và tư duy chiến lược.
Luật sư Nguyễn Hoàng Chương
Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Thương Nhân Việt Nam (VTA)
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu
Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.
Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.
1. Cơ sở pháp lý của chính sách
Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:
- Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
- Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
- Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
- Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
- Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
- Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
- Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.
2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu
Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau
(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:
- UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
- Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
- Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.
(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
- Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.
(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
- Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.
3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu
Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.
Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.
Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:
- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.
- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.
- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.
- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.
4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.
Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.
5. Lộ trình thực hiện
Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn
Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!
Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!
Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.
Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.
Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?
Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
Luật yêu cầu:
- Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
- Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
- Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.
Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”
Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.
Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.
Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu
Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:
- Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
- Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
- Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.
Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.
Tại sao cần quan tâm?
Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.
Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang
Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)
Giới thiệu tổng quan
Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.
1. Thông tin vụ việc
1.1. Bên yêu cầu
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
- Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
- Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
- Công ty Cổ phần Mía đường 333
- Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng
1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM
- Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
- Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
- Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
(Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)
1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM
- Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia
2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp
Mức thuế CBPG và CTC
Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)
Quốc gia |
Thuế CBPG |
Thuế CTC |
Campuchia |
42,99% |
4,65% |
Indonesia |
42,99% |
4,65% |
Lào |
42,99% |
4,65% |
Malaysia |
42,99% |
4,65% |
Myanmar |
42,99% |
4,65% |
Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:
Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:
- Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
- Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
- PT. Kebun Tebu Mas
- Mitr Lao Sugar Company Limited
- Savannakhet Sugar Corporation
- TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
- Than Daung OO Company Limited
- Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited
Thời hạn áp dụng
- Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
- Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
3. Tình trạng vụ việc hiện nay
- Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.
4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc
- Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
- Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.
Các sự kiện đáng chú ý
Thời gian |
Sự kiện |
21/09/2021 |
Khởi xướng điều tra |
01/08/2022 |
Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM |
28/03/2023 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/12/2023 |
Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/03/2024 |
Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới |
10/06/2024 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Kính chào Quý khách hàng,
Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.
Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam;
(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong.
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam
Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:
(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:
Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu.
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:
Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.
Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc.
Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.
Trân trọng,
Caselaw Việt Nam Team
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)
1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/BqXxug9SI9/thoa-thuan-dat-coc-mua-dat-nong-nghiep
- Số lượng điều khoản: 4 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/ROoRhUD1cN/hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-gop-von-bang-gia-tri-quyen-su-dung-dat
- Số lượng điều khoản: 11 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/AG0f9aFL00/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-tai-san-gan-lien-tren-dat-xay-dung-cua-hang-xang-dau
- Số lượng điều khoản: 5 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/lIzkSubzKW/hop-dong-cho-muon-dat
- Số lượng điều khoản: 12 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/3opJBbrs7V/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-quyen-so-huu-nha-o-ms-01
- Số lượng điều khoản: 15 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/921tNDPcw6/hop-dong-dat-coc-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-ms-01
- Số lượng điều khoản: 8 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/8D3CfBTSyz/hop-dong-the-chap-quyen-su-dung-dat-va-can-ho-ms-01
- Số lượng điều khoản: 14 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tuyển tập 11 án lệ được Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC ban hành trong năm 2018
Đang cập nhật
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp
Án lệ số /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày… tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ 1:
Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.
- Giải pháp pháp lý 1:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.
- Tình huống án lệ 2:
Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.
- Giải pháp pháp lý 2:
Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:
Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).
Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.
Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:
- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;
- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.
Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:
- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;
- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.
Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:
- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;
- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.
Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.
Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:
Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.
- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc là 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn là 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 là 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013 là 123.254.156 đồng; Tổng cộng: 6.054.407.123 đồng.
- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.
Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…
Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:
… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…
Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).
[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…
…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”
(nguồn: anle.toaan.gov.vn)