cơ sở dữ liệu pháp lý

Dự thảo án lệ 19 (đợt 3): Dự thảo án lệ về phạm vi yêu cầu trong vụ án đòi tài sản là nhà đất

Án lệ số …./2017 về phạm vi yêu cầu trong vụ án đòi tài sản là nhà đất

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày... tháng... năm... và được công bố theo Quyết định số.../QĐ-CA ngày... tháng... năm... của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 461/2012/DS-GĐT ngày 20-9-2012 của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “đòi nhà cho thuê” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9 (người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là NĐD) với bị đơn là BĐ (BĐ ủy quyền cho NUQ); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là NLQ1, NLQ2

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 10 phần Xét thấy của Quyết định Giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung án lệ:

-Tình huống án lệ:

Trong vụ án kiện đòi tài sản là nhà đất, có đương sự yêu cầu xác định nhà đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình nhưng không yêu cầu giải quyết phần giá trị công trình mà họ đã xây dựng thêm trên đất đó và Tòa án quyết định nhà đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này phải giải quyết việc thanh toán giá trị công trình xây dựng thêm trên đất đó vì yêu cầu xác định nhà đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của đương sự lớn hơn yêu cầu thanh toán giá trị công trình xây dựng thêm trên đất đó.

- Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Khoản 1, Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)

Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)

Từ khóa án lệ:

“Đòi tài sản”; “Nhà đất”; “Thanh toán giá trị công trình xây dựng”; “Phạm vi yêu cầu”; “Không vượt quá phạm vi yêu cầu”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 27-12-2009 và trong quá trình tố tụng, các đồng nguyên đơn và NĐD, đại diện theo ủy quyền của các đồng nguyên đơn trình bày:

Nhà đất tại A, phường B, quận BT, thành phố Hà Nội có diện tích 170m2 mang bằng khoán điền thổ số 708 khu C đứng tên cụ D và E, do bảo hộ Bắc Kỳ cấp ngày 22-5-1935. Cụ D và cụ E không có con chung. Năm 1955 cụ E chết, năm 1951 cụ D cho cụ F thuê một phần diện tích nhà A để đặt máy xay xát gạo. Năm 1953 cụ D chết thì cụ G (vợ sau của cụ D) tiếp tục ký hợp đồng cho cụ F thuê. Sau đó, do hoàn cảnh chiến tranh và biến động của lịch sử nên gia đình không tiếp tục theo dõi việc cho thuê nhà đất. Sau khi tìm hiểu, gia đình được biết người đang sử dụng là NLQ2. Năm 1981 cụ G trực tiếp sang gặp ông Chủ nhiệm NLQ2là ông H nhưng không lần nào được ông H tiếp. Năm 1982 cụ G mất, ngày 18-12-1982 ông H thuê người phá toàn bộ căn nhà trên để xây dựng lại (hiện nay là 3 tầng).

Việc xây dựng này, đồng nguyên đơn đều đã nhiều lần làm đơn đến cơ quan thẩm quyền để xin được giải quyết nhưng không có hồi âm.

Quá trình quản lý đất tại đây gia đình nguyên đơn đã bán một phần nhà A cụ thể: Năm 1988, gia đình đã bán phần đất diện tích phía A1 cho bà I, ông J, ông K diện tích ở 37,8m2, sân 35,01m2 và sau này bán tiếp diện tích khu phụ, phần diện tích khu phụ khoảng 10m2, hiên có chiều ngang 1m, chiều dài 6m nối nhà A1 xuống khu phụ nhà AB. Tổng diện tích bán cho bà I, ông J, ông K khoảng 90m2. Năm 1992 gia đình bán tiếp nhà AB cho ông L, bà M có tổng diện tích 50m2. Như vậy, phần diện tích còn lại theo bằng khoán điền thổ là 30m2.

Sau đó NLQ2 lại tự động làm tiếp các công trình phụ, khung kính và xây thêm tường để làm thêm diện tích sân thượng trên diện tích 30m2 còn lại của gia đình nguyên đơn. Nghiêm trọng hơn là vào năm 1996-1997 NLQ2 đã tự bán căn nhà này cho BĐ đã sử dụng từ đó đến nay.

Nay do hoàn cảnh cấp thiết về nhà ở, các đồng nguyên đơn yêu cầu BĐ phải trả toàn bộ diện tích nhà đất tại A. Các đồng nguyên đơn đồng ý tạo điều kiện để BĐ và gia đình về ở tại tầng 2 và tầng 3 phía trong số nhà N trong thời hạn 6 tháng. Các đồng nguyên đơn đồng ý thanh toán giá trị xây dựng tại nhà A theo biên bản định giá của Hội đồng thẩm định giá.

BĐ trình bày: Về nguồn gốc trước đây của nhà đất thế nào thì ông không rõ, ông chỉ biết năm 1970 Hợp tác xã công nghiệp K (nguyên là Hợp tác xã cơ khí K) chuyển nhượng lại trụ sở số A cho NLQ2, năm 1977 BĐ xin gia nhập và góp vốn vào NLQ2, trong Hợp đồng góp vốn NLQ2 đã nhất trí thỏa thuận là BĐ góp 100 lạng vàng và sử dụng ngôi nhà A. Nhóm xã viên do ông đại diện gồm: NLQ1, ông P, ông Q, bà R đã góp vốn theo thoả thuận và năm 1997 BĐ chính thức nhận sử dụng, khai thác đối với nhà đất này. Năm 2006 NLQ2 làm ăn không hiệu quả nên nhóm xã viên do ông làm đại diện xin rút ra khỏi danh sách NLQ2và NLQ2 đã chia tài sản cho BĐ và nhóm xã viên do ông làm đại diện tương đương với số vốn góp ban đầu là nhà A. BĐ và vợ là NLQ1 đã thanh toán tiền góp vốn cho những xã viên còn lại do BĐ làm đại diện và BĐ chính thức sở hữu nhà số A cho đến nay. Khi chuyển nhượng, giữa BĐ và NLQ2 đã thực hiện đầy đủ giấy tờ, BĐ sẽ cung cấp cho Tòa án sau.

Nay các đồng thừa kế của cụ G mà đại diện là NĐ1 yêu cầu trả lại nhà thì BĐ không đồng ý vì thiếu cơ sở pháp lý. BĐ không biết cụ G và các con cụ là ai, BĐ chỉ biết nhà này là do NLQ2 bán lại cho BĐ nên việc sử dụng của BĐ là hợp pháp. Quá trình ở tại đây BĐ đã sửa chữa nhiều lần như hiện nay, các con của BĐ và NLQ1 ở đây đều không đóng góp gì trong quá trình mua bán nhà của NLQ2 và sửa chữa nhà này nên không liên quan gì.

NLQ1 trình bày: Theo NLQ1 được biết là từ năm 1970, NLQ2 đã mua lại nhà của Hợp tác xã cơ khí K với giá 4.500đ. Do thiếu vốn kinh doanh NLQ2 đã huy động vốn và đồng ý cho NLQ1 góp vốn vào NLQ2. Năm 1997 nhóm xã viên gồm 5 người và được NLQ2 giao cho ngôi nhà A để nhóm sản xuất kinh doanh độc lập. Năm 2006 căn cứ vào tình hình thực tế và theo nguyện vọng của nhóm xã viên 5 người, NLQ2 đã tiến hành họp Đại hội xã viên và nhất trí bán đứt ngôi nhà A cho BĐ, việc này thể hiện cụ thể trong biên bản Đại hội xã viên NLQ2 ngày 16-7-2006. Sau đó, nhóm 5 người đồng ý ủng hộ NLQ2 là 100.000.000đ còn 150.000.000đ theo thỏa thuận khi nào làm xong sổ đỏ thì trả nốt. Sau đó nhóm 5 xã viên gồm BĐ, ông P, ông Q, bà R, NLQ1 đã có sự thống nhất: NLQ1 và BĐ thanh toán cho ông P, ông Q, bà R số tiền bao nhiêu thì bà không nhớ rõ để mua đứt nhà A nữa. Nay NĐ1 cùng các đồng nguyên đơn yêu cầu trả lại nhà A, ý kiến của NLQ1 là NLQ1 và BĐ đã mua lại hợp pháp của NLQ2 nên không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện NLQ2 do bà S chủ nhiệm trình bày: Năm 1970 NLQ2 đã được ông H thành lập và làm chủ nhiệm. Văn phòng đó tại A, được Hợp tác xã công nghiệp K bán lại nhà mái vẩy tôn. Sau 12 năm phát triển, NLQ2 thu hút 100 xã viên. Do đó năm 1982 NLQ2 được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng nhà kiên cố 3 tầng và từ ngày thành lập đến nay NLQ2 vẫn đóng góp thuế sử dụng đất.

Năm 1997 chủ nhiệm H lúc đó đã 70 tuổi sức yếu đã thuận tình cho BĐ đại diện cho nhóm 5 người góp vốn đề xin gia nhập xã viên NLQ2 với tổng số tiền 440.000.000đ. Ngày 05-6-1998 Ban thanh tra Công an quận BT có văn bản số 457/CSKT-THBT thanh tra xác nhận không có việc mua bán ngôi nhà A với nhóm BĐ mà giao cho tổ BĐ để kinh doanh, sản xuất. Một số vốn đóng góp đã trả cho xã viên theo Nghị quyết 32 của Chính phủ.

Từ năm 1997 đến năm 2006 tổ BĐ không đóng góp gì cho quỹ phúc lợi của NLQ2. Do đó một số xã viên đề nghị được chuyển từ sản xuất ra bán hàng tại cửa hàng A. Do đó BĐ xin đóng góp một số tiền do khai thác cửa hàng A mà có để giảm bớt khó khăn cho xã viên, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện đủ.

Tháng 8-2008 ông H qua đời, NLQ2 đã Đại hội xã viên bầu bà S làm chủ nhiệm NLQ2, bà S đã nhiều lần mời BĐ đến văn phòng để làm sáng tỏ ngôi nhà A, nhưng BĐ không đến. Với căn cứ trên NLQ2 khẳng định ngôi nhà A, là tài sản của NLQ2 do công sức tiền của xã viên đóng góp xây dựng mà có. Nay NLQ2 đề nghị Tòa án xem xét thấu đáo để giải quyết đúng pháp luật để NLQ2 và xã viên không bị mất mát, thiệt hại tài sản và quyền lợi chính đáng.

Tại bản án số 05/2011/ DSST ngày 15-6-2011 của Tòa án nhân dân quận BT đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu đòi lại tài sản của các đồng nguyên đơn do NĐD làm đại diện đối với BĐ.

Xác nhận nhà AA, phường B, quận BT, Hà Nội có diện tích 26,4m2 thuộc thửa đất số 402 tờ số 12, bằng khoán điền thổ số 708 khu C lập năm 1935 thuộc quyền sở hữu và sử dụng của NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9.

Buộc BĐ, NLQ1 và những người thường xuyên cư trú tại số nhà AA, phường B, Hà Nội phải trả toàn bộ nhà cho NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9 do NĐD làm đại diện.

Ghi nhận sự tự nguyện của các đồng nguyên đơn do NĐD làm đại diện tạo điều kiện cho BĐ, NLQ1 và những người đang cư trú tại AA, Hà Nội về ở tại N, quận BT, Hà Nội (tầng 2 và tầng 3 phía trong) trong thời hạn 06 tháng kể từ khi án có hiệu lực pháp luật.

Giành để giải quyết bằng vụ án khác về việc mua bán, chia tách tài sản, giá trị xây dựng nhà AA, phường B, Hà Nội khi các đương sự có yêu cầu.

Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.

Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự

Ngày 17/6/2011 vợ chồng BĐ, NLQ1 có đơn kháng cáo.

Ngày 16/7/2011 NLQ2 có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2012/DSPT ngày 11/01/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Chấp nhận yêu cầu đòi lại tài sản của các đồng nguyên đơn do NĐD làm đại diện đối với BĐ.

Xác nhận nhà AA, phường B, quận BT, Hà Nội (là một phần của nhà AA, phường B, Hà Nội) có diện tích 26,4m2thuộc thửa đất số 402 tờ số 12, bằng khoán điền thổ số 708 khu C lập năm 1935 thuộc quyền sở hữu và sử dụng của NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9.

Buộc BĐ, NLQ1 và những người thường xuyên cư trú tại số nhà AA, phường B, Hà Nội phải trả toàn bộ nhà 4 tầng cho NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9 do NĐD làm đại diện.

Ghi nhận sự tự nguyện của các đồng nguyên đơn do NĐD làm đại diện tạo điều kiện cho BĐ, NLQ1 và những người đang cư trú tại AA, Hà Nội về ở tại N, quận BT, Hà Nội (tầng 2 và tầng 3 phía trong) trong thời hạn 06 tháng kể từ khi án có hiệu lực pháp luật.

Giành để giải quyết bằng vụ án khác về việc mua bán, chia tách tài sản, và nghĩa vụ thanh toán giá trị xây dựng nhà AA, phường B, Hà Nội khi các đương sự có yêu cầu.

Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, BĐ có khiếu nại.

Tại Quyết định kháng nghị số 66/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 20-7-2012 đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2012/DSPT ngày 11-01-2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2011/ DSST ngày 15-6-2011 của Tòa án nhân dân quận BT, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận BT xét xử sơ thẩm lại vụ án.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận.

Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định các nhà mang số từ số 1 đến A và A1 thuộc thửa đất số 402, tờ bản đồ số 12, khu C có diện tích 170m2. Ngày 22-5-1935 Sở Bảo thủ điền thổ Hà Nội lập bằng khoán điền thổ số 708 cấp cho chủ sở hữu là vợ chồng cụ D, E. Phố Huế sau Cách mạng tháng 8-1945 được đổi tên thành phố Duy Tân, sau ngày Hà Nội được giải phóng lại đổi lại tên phố là phố Huế; do đó, phố Duy Tân và phố Huế là một.

Theo Công văn số 160/UBND ngày 29-7-2010 của Ủy ban nhân dân phường B, quận BT thì nhà đất tại A mang bằng khoán điền thổ số 708, tờ số 12, thửa số 402 tương ứng với các các thửa đất số 37, 120, 121 và 122 tờ bản đồ 6H-II-23 lập năm 1996. Nhà đất đang tranh chấp mang AA là một phần của nhà A và thuộc quyền sở hữu của cụ D, cụ E và sau này là cụ G.

Năm 1951, cụ D lập hợp đồng cho cụ F thuê một phần nền nhà giữa nhà A (bề mặt 6 thước, bề sâu 6 thước). Ngày 20-2-1953 cụ D lập di chúc để lại toàn bộ nhà đất nêu trên cho vợ thứ là cụ G. Sau khi cụ D chết (1953), cụ G tiếp tục ký hợp đồng cho cụ F thuê nền nhà nêu trên. Thời hạn thuê trong hợp đồng là 01 năm kể từ ngày 01-4-1953 đến ngày 01-4-1954. Theo nội dung của hợp đồng thì trên nền nhà có sẵn 2 hồi nhà, cụ F được quyền lợp thêm mái tôn hoặc mái ngói để sử dụng làm chỗ buôn bán; cụ F được sử dụng chung nhà bếp và nhà vệ sinh, những người ở nhà ngoài có thể đi lại qua nhà giữa (qua phần diện tích cụ F thuê) của nhà A; nếu hết thời hạn thuê mà các bên không chấm dứt hợp đồng thuê thì mặc nhiên hợp đồng lại có giá trị như cũ. Cho đến nay, không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện nhà đất này cụ G hoặc các thừa kế của cụ G đã chuyển dịch quyền sở hữu phần diện tích nhà đất đang tranh chấp cho người khác, hoặc có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý phần diện tích nhà đất đang tranh chấp đối với cụ G hoặc các thừa kế của cụ G và giao cho người khác sử dụng. Nên phần nền nhà đất này thuộc vào bằng khoán điền thổ số 708 vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ nhà.

Theo tài liệu do phía BĐ xuất trình thì ngày 24-6-1982 NLQ2 được Ủy ban xây dựng cơ bản thành phố Hà Nội cấp giấy phép sửa chữa từ nhà 1 tầng mái lợp tôn thành nhà 2 tầng có gác lửng, mái lợp ngói, diện tích xây dựng 27m2; ngày 10-4-1995 NLQ2 lập tờ trình xin hợp thức hóa nhà, phần kê khai nguồn gốc đất đang sử dụng là mua của Hợp tác xã cơ khí K (là đất tư) nhưng cho đến nay vẫn chưa được hợp thức quyền sử dụng đất.

Tại các “Giấy xác nhận” của ông T (nguyên là cán bộ quản lý của Ban Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp quận BT thời kỳ từ năm 1970 đến năm 1986) ngày 21-9-1994 có nội dung: Năm 1970 Hợp tác xã cơ khí K bán cho NLQ2 nhà A (1 tầng lợp tôn) với giá 4.500đ; tại “Giấy xác nhận” của ông U (nguyên là Chủ nhiệm Hợp tác xã cơ khí K ở VT ngày 26-9-1994 có nội dung: năm 1970 Hợp tác xã cơ khí K bán cho NLQ2 ngôi nhà lợp tôn diện tích 27m2 tại số A với số tiền 4.500đ. Ngôi nhà này do xã viên góp vào đã hóa giá Hợp tác xã cơ khí K đã thanh toán tiền hóa giá cho xã viên góp vào. Ngày 15-12-1994 Phòng Công nghiệp quận BT xác nhận chức vụ công tác của ông U và xác định Hợp tác xã cơ khí K nay đã giải thể; việc mua bán nhà giữa Hợp tác xã cơ khí K và NLQ2 Phòng Công nghiệp không biết.

Ngày 01-8-1997 NLQ2 ký hợp đồng góp vốn với nhóm xã viên (5 người gồm BĐ, ông P, ông Q, bà R, NLQ1) do BĐ đại diện, theo nội dung của hợp đồng thì nhóm xã viên này góp cho NLQ2 100 lạng vàng loại 98% để được sử dụng nhà A; ngày 13-8-1997 hai bên lập biên bản cuộc họp bàn giao nhà A cho ông Định đại diện nhóm xã viên 5 người, tại văn bản này thì số vàng các xã viên góp vốn được quy đổi thành 460,560.000đ, phía NLQ2 nhất trí bàn giao nhà 04 tầng, kể cả cửa hàng tại A “để sản xuất kinh doanh, ở vĩnh viễn” và thống nhất việc bàn giao nhà được thực hiện vào ngày 15-8-1997. Theo BĐ khai thì NLQ2 đã bán ngôi nhà này cho nhóm xã viên do BĐ đại diện, sau này vợ chồng BĐ đã thanh toán tiền cho ông ông P, ông Q, bà R để được sở hữu toàn bộ nhà A.

Như vậy, xuất phát từ hợp đồng cho thuê đất nền nhà A giữa cụ D, cụ G với cụ F từ năm 1951, rồi sau đó việc dịch chuyển tài sản này từ cụ F sang Hợp tác xã cơ khí K như thế nào thì chưa được các Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ. Theo xác nhận của ông U nêu trên thì chưa rõ người đưa tài sản này góp vốn vào Hợp tác xã cơ khí K là ai, cụ F hay người nào khác; nếu cụ F hoặc người nào khác tự ý đưa tài sản này góp vốn vào Hợp tác xã cơ khí K mà không được sự đồng ý của cụ G thì việc Hợp tác xã cơ khí K hóa giá và thanh toán tiền hóa giá cho cụ F hoặc cho người đưa tài sản góp vào Hợp tác xã cơ khí K đều là không đúng.

BĐ cho rằng BĐ mua nhà đất này của NLQ2 với giá 100 lạng vàng 98% năm 1997, nhưng NLQ2 lại cho rằng NLQ2 không bán nhà đất cho BĐ mà còn có đơn khởi kiện “đòi nhà” đối với vợ chồng BĐ. Do đó, đã phát sinh tranh chấp giữa BĐ và NLQ2. Tuy nhiên, do NLQ2 không thực hiện đúng quy định của pháp luật về thủ tục yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và BĐ cũng không có yêu cầu Tòa án giải quyết quan hệ góp vốn để được sử dụng nhà A mà BĐ cho rằng BĐ đã mua của NLQ2, nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở để thụ lý giải quyết các vấn đề này trong cùng vụ án nên đã giành quyền khởi kiện vụ án dân sự khác cho các đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối với ông P, ông Q, bà R là những người cùng góp vốn với BĐ vào NLQ2 để được sử dụng nhà A. Sau khi ông P, ông Q, bà R rút phần vốn góp và để cho vợ chồng BĐ được sử dụng nhà A thì BĐ đã thanh toán dứt điểm quyền lợi cho ông P, ông Q, bà R; những người này cũng không có yêu cầu tham gia tố tụng, BĐ cũng không có tranh chấp với họ, không yêu cầu giải quyết việc góp vốn và thanh toán vốn góp cùng những ngựời này và không có yêu cầu đưa các ông bà này tham gia tố tụng, nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng không có cơ sở để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là đúng.

Đối với việc thanh toán giá trị xây dựng tại A. Tuy BĐ không nêu yêu cầu giải quyết phần giá trị xây dựng vì BĐ cho rằng BĐ đã mua nhà đất này với NLQ2 và xin được công nhận việc mua bán nhà giữa BĐ và NLQ2, nhưng quyền lợi của vợ chồng BĐ gắn với nhà đất tại A (phần nhà đất đang tranh chấp) nên khi buộc vợ chồng BĐ phải trả nhà đất cho các đồng nguyên đơn thì phải buộc các đồng nguyên đơn phải thanh toán giá trị xây dựng tại nhà đất đang tranh chấp cho vợ chồng BĐ theo giá mà Tòa án đã định giá mới đúng. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng việc thanh toán giá trị xây dựng nhà này nằm trong giá trị NLQ2 và nhóm xã viên do BĐ đại diện đã được thanh toán cho NLQ2 và phía BĐ, NLQ1 chưa có yêu cầu giải quyết nên tách ra để giải quyết thành vụ án dân sự khác khi các bên có yêu cầu, là không đảm bảo quyền lợi của vợ chồng BĐ.

Ngoài ra, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần xác định những người con của BĐ, NLQ1 hoặc những người đang thường xuyên sinh sống tại nhà đất đang tranh chấp để đưa họ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 và khoản 4 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Chấp nhận kháng nghị số 66/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 20-7-2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 02/2012/DSPT ngày 11/01/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 02/2012/DSPT ngày 11/01/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2011/DSST ngày 15-6-2011 của Tòa án nhân dân quận BT về vụ án “Đòi nhà cho thuê” giữa các đồng nguyên đơn là NĐ1, NĐ2, NĐ3, NĐ4, NĐ5, NĐ6, NĐ7, NĐ8, NĐ9 với BĐ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là NLQ1, NLQ2.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận BT, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại vụ án.

NỘI DUNG ÁN LỆ

Đối với việc thanh toán giá trị xây dựng tại số A. Tuy BĐ không nêu yêu cầu giải quyết phần giá trị xây dựng vì BĐ cho rằng BĐ đã mua nhà đất này với NLQ2 và xin được công nhận việc mua bán nhà giữa BĐ và NLQ2, nhưng quyền lợi của vợ chồng BĐ gắn với nhà đất tại A (phần nhà đất đang tranh chấp) nên khi buộc vợ chồng BĐ phải trả nhà đất cho các đồng nguyên đơn thì phải buộc các đồng nguyên đơn phải thanh toán giá trị xây dựng tại nhà đất đang tranh chấp cho vợ chồng BĐ theo giá mà Tòa án đã định giá mới đúng”.

(nguồn Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn))

Khuôn khổ pháp lý về PPP tại Việt Nam từ 1997 đến 2019

1. Giai đoạn từ năm 1997 – 2008:

Tại Việt Nam, đầu tư theo hình thức PPP được bắt đầu thực hiện từ năm 1997 với chỉ duy nhất một hình thức hợp đồng BOT (Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997). Đến năm 1998, các loại hợp đồng PPP đã được mở rộng gồm 03 loại BOT, BTO, BT (Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998). Năm 2005, khái niệm về 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT lần đầu tiên được quy định tại Luật Đầu tư và tiếp tục được hướng dẫn thực hiện tại Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007. Trong giai đoạn này, các văn bản quy phạm pháp luật đều chưa có hương dẫn về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP.

(Ảnh minh họa: sưu tầm)

2. Giai đoạn từ năm 2009 – 2013:

Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP quy định các hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO và BT áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.

Ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP, trong đó lần đầu tiên định nghĩa thuật ngữ PPP. Tuy nhiên, Quyết định nêu trên chưa nêu cụ thể các loại hợp đồng dự án PPP, cũng như không phân tách rõ ràng với Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, đặc biệt là quy định cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP và các cơ chế, chính sách kèm theo… Do sự tồn tại song song của hai văn bản này trong cùng một giai đoạn nên nhiều ý kiến vẫn cho rằng mô hình PPP (theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg) và 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT (theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP) là những hình thức đầu tư khác nhau.

Về lựa chọn nhà đầu tư, trong giai đoạn này, Luật Đấu thầu năm 2005 không điều chỉnh hoạt động lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP. Việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Thông’tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ KH&ĐT.

Ảnh: Nút giao thông trung tâm quận Long Biên là một trong các dự án BT đã hoàn thành, mang lại hiệu quả đầu tư cao cho Hà Nội (sưu tầm)

3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay:

Trong giai đoạn này, quy định về đầu tư theo hình thức PPP đã được thể chế hóa ở các văn bản Luật khác nhau (như Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư) và quy định về PPP được thống nhất trong Nghị định của Chính phủ, cụ thể:

+ Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13: Khoản 4 Điều 5 quy định đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP là đầu tư công. Điều 33 của Luật cũng quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục, nội dung quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án PPP.

+ Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2014); Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu (Khoản 3 Điều 1) đã bổ sung quy định về lựa chọn nhà đầu tư PPP. Khoản 2 Điều 3 của Luật quy định về việc áp dụng Luật Đấu thầu, theo đó, đối với trường hợp đã lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP thì nhà đầu tư không phải lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án theo Luật Đấu thầu nhưng phải ban hành quy định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế. Quy định về giải thích từ ngữ (Điều 4) đã bổ sung các thuật ngữ liên quan đến PPP bao gồm định nghĩa cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp dự án PPP, hợp đồng dự án. Luật cũng quy định riêng một chương (Chương 6) về trình tự, thủ tục, phương pháp, hình thức lựa chọn nhà đầu tư. Các loại hợp đồng PPP, điều kiện ký kết hợp đồng được quy định từ Điều 68 đến Điều 72.

+ Luật Đầu tư số 67/2014/QH13: Khoản 8 Điều 3 và Điều 27 nêu định nghĩa về hợp đồng PPP, theo đó, hợp đồng PPP là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP theo quy định chi tiết của Chính phủ.

Ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 15/CP) trên cơ sở hợp nhất Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg. Nghị định 15/CP được xây dựng trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về quy trình thực hiện dự án, loại hợp đồng… đồng thời có những bổ sung phù họp với tình trạng, hoàn cảnh của Việt Nam, cụ thể:

+ Mở rộng lĩnh vực (Điều 4): Trước đây, đầu tư PPP chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng “cứng” thuộc các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải. Nghị định 15/CP đã bổ sung phạm vi dự án có thể làm PPP, bao gồm cả hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực xã hội như y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao và các lĩnh vực khác như hạ tầng thương mại, khu công nghiệp, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

+ Bổ sung loại hợp đồng mới (Điều 3): Bên cạnh các loại hợp đồng truyền thống như BOT, BTO và BT, Nghị định 15/CP bổ sung một số loại hợp đồng mới như BOO, O&M, BTL và BLT. Các loại hợp đồng này có thể chia thành hai nhóm về hình thức thanh toán: (i) nhóm hợp đồng mà nhà đầu tư tố chức thu phí trực tiếp của người sử dụng hoặc tạo doanh thu thông qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm (hợp đồng BOT, BTO, O&M, BOO); (ii) nhóm hợp đồng mà nguồn thu của nhà đầu tư được hình thành từ những khoản thanh toán định kỳ của cơ quan nhà nước (hợp đồng BTL, BLT).

+ Quy trình chuẩn bị dự án (Điều 9): Nghị định 15/CP yêu cầu dự án phải thực hiện nghiên cứu và chuẩn bị đầu tư bài bản trước khi lựa chọn nhà đầu tư. Quá trình nghiên cứu trải qua hai giai đoạn rõ nét: (i) lập đề xuất dự án đế đánh giá tính phù họp với hình thức đầu tư PPP; (ii) lập báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) để đưa ra những giải pháp cụ thể cho quá trinh triển khai.

Ảnh: Bệnh viện Gia An 115 là dự án PPP đầu tiên trong lĩnh vực y tế tại TP.HCM, hợp tác giữa Tập đoàn Hoa Lâm và Bệnh viện Nhân dân 115 (Tuấn Thụy)

Nghị định 15/CP cũng phân biệt rõ hai phương thức nhà đầu tư tư nhân tiếp cận dự án PPP do Nhà nước lập và do nhà đầu tư đề xuất. Trường hợp nhà đầu tư đề xuất dự án, việc lựa chọn vẫn thông qua quy trình đấu thầu cạnh tranh (nhà đầu tư đề xuất dự án được hưởng mức ưu đãi 5% trong quá trình lựa chọn theo Điều 3 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP về lựa chọn nhà đầu tư).

+ Quy định về vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án (Điều 11): Trong nhiều trường hợp, dự án với mục đích công không có đủ nguồn thu để đảm bảo khả năng hoàn vốn. Khi đó dự án cần tới sự tham gia của Nhà nước. Nghị định 15/CP quy định về mục đích sử dụng và thủ tục thu xếp nguồn vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án PPP nhằm đảm bảo tính khả thi về tài chính cho dự án. Theo đó, nguồn vốn này được sử dụng với ba mục đích: (i) góp vốn đế xây dựng công trình dự án; (ii) thanh toán cho nhà đầu tư; (iii) hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, giải phóng mặt bằng, tổ chức bồi thường và tái định cư.

+ Quy định cụ thể về tổ chức chuẩn bị, thực hiện dự án: Nghị định 15/CP (Điều 8) quy định về cơ quan được đứng ra ký kết, thực hiện hợp đồng cũng như cơ chế ủy quyền ký hợp đồng. Ngoài ra, Điều 7 Nghị định đã quy định tổ chức bộ máy để thực hiện dự án PPP tại cấp Trung ương (như thành lập Ban Chỉ đạo về PPP) và cấp Bộ, ngành, địa phương (thành lập hoặc giao đơn vị làm đầu mối về PPP).

Ngày 17/3/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 30/CP) quy định chi tiết thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP, trong đó có các điểm nổi bật:

+ Hình thức lựa chọn nhà đầu tư (Điều 9): Hai hình thức lựa chọn nhà đầu tư chủ yếu là đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu.

+ Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu (Điều 27): Gồm 4 phương pháp là phương pháp giá dịch vụ, phương pháp vốn góp của Nhà nước, phương pháp lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và phương pháp kết hợp.

+ Tăng cường công khai, minh bạch (Điều 4, 5): Nghị định quy định thời hạn, quy trình và phương tiện đăng tải thông tin liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư như danh mục dự án, kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư. Theo đó, Báo Đấu thầu và Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là hai phương tiện đãng tải thông tin đấu thầu một cách tập trung, minh bạch.

+ Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 2): Nghị định 30/CP hướng dẫn chi tiết các yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong các cặp quan hệ: nhà đầu tư tham dự thầu và nhà thầu tư vấn tham gia các khâu của quá trình đấu thầu; nhà đầu tư tham dự thầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên mời thầu; nhà đầu tư tham dự thầu, nhà thầu tư vấn với một bên thứ ba.

Tiếp theo đó, các Bộ, ngành đã ban hành 12 Thông tư hướng dẫn Nghị định 15/CP và Nghị định 30/CP, cụ thể:

+ Bộ KH&ĐT ban hành 03 Thông tư gồm: Thông tư số 06/2016/TT-BKHĐT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 15/CP, Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT về lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi, Thông tư số 15/2016/TT-BKHĐT về lập hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu dự án PPP;

+ Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các Thông tư hướng dẫn nội dung về PPP thuộc ngành, lĩnh vực minh quản lý, bao gồm: Thông tư số 86/2015/TT-BGTVT, Thông tư số 23/2015/TT-BCT; Thông tư số 38/2015/TT-BCT; Thông tư số 21 /2016/TT-BTTTT; Thông tư số 14/2017/TT-BNNPTNT.

+ Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn về quản lý tài chính dự án PPP tại Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 75/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 30/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư sổ 75/2017/TT-BTC.

+ Riêng về cơ chế thanh toán dự án BT, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định sổ 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015 và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 183/2015/TT-BTC hướng dẫn Quyết định nêu trên.

Nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 04/5/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về PPP (sau đây gọi tắt là Nghị định 63/CP) với một số nội dung quy định mới để khắc phục tối đa các tồn tại, hạn chế, các rào cản ở cấp Nghị định, trong đó có một số điểm nổi bật như:

+ Quy định rõ về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP nói chung và có quy trình riêng đối với dự án sử dụng công nghệ cao; quy định quy trình chặt chẽ đối với dự án BT. Bên cạnh đó, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP đã được quy định rõ tại Nghị định theo từng loại dự án và nhu cầu sử dụng nguồn lực của Nhà nước (Trung ương hay địa phương) trên tinh thần đẩy mạnh phân cấp, tăng tính trách nhiệm của người đứng đầu nhằm khắc phục quy định vay mượn trước đây (có khi tham chiếu đến quy định đầu tư công thuần túy hoặc đầu tư tư nhân thuần túy mà chưa có quy định rõ về cơ chế hợp tác công tư).

+ Bổ sung nguồn vốn Nhà nước tham gia dự án PPP từ các nguồn chi thường xuyên, nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ công (ngoài vốn đầu tư công) để phù hợp với tính chất của các loại hợp đồng PPP và tăng cơ hội triển khai dự án PPP tại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính (ví dụ điển hình là các bệnh viện công lập đang quá tải…).

+ Quy định chặt chẽ hơn đối với dự án BT: (i) dự án BT chỉ được tổ chức lựa chọn nhà đầu tư khi đã có thiết kế và dự toán được phê duyệt; (ii) quỹ đất dự kiến thanh toán cho nhà đầu tư phải được định rõ ngay trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi – với yêu cầu phải được phê duyệt quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/2.000 hoặc 1/500 (nếu có).

+ Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dự án PPP: Do sau khi lựa chọn và đàm phán thành công hợp đồng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án PPP sẽ ký kết hợp đồng (BOT, BT, BTL, BLT…) làm căn cứ triển khai thực hiện nên việc duy trì thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư là không cần thiết; việc lược bỏ thủ tục này góp phần giảm thời gian, thủ tục và chi phí cho nhà đầu tư.

+ Minh bạch nội dung cơ bản hợp đồng PPP đã được ký kết: Nghị định quy định thời gian và các nội dung thông tin cơ bản hợp đồng PPP phải được công khai để tăng tính minh bạch, tính giải trình và đặc biệt làm tăng khả năng giám sát của người dân, xã hội.

+ Ngoài ra, Nghị định 63/CP đã rà soát, sửa đổi, bổ sung khá nhiều quy định về: lĩnh vực đầu tư, hợp đồng dự án, tăng cường việc phân cấp, yêu cầu về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, yêu cầu về thời điếm chuyển nhượng dự án; yêu cầu lấy ý kiến cộng đồng về tác động của dự án…

Để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 21/10/2017, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-ƯBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT. Tại Nghị quyết này, ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp, trong đó bao gồm “Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức PPP với định hướng nghiên cứu xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật tạo cơ sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ cho hình thức đầu tư này”.

Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Chính phủ đã chỉ đạo, giao Bộ KH&ĐT chủ trì nghiên cứu, xây dựng Luật về PPP. Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật PPP đã được Bộ KH&ĐT hoàn thiện, được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 10/5/2018.

Ngày 13/12/2018, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 613/2018/ƯBTVQH14 về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019. Theo đó, Luật về PPP dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019).

Quy định pháp luật gián tiếp điều chỉnh hoạt động đầu tư theo hình thức PPP

Ngoài hành lang pháp lý trực tiếp quy định về dự án PPP thì Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các quy định liên quan như pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng… quy định một số nội dung liên quan đến PPP, cụ thể:

– Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công:

Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 13) quy định cho phép việc sử dụng tài sản công để tham gia dự án đầu tư theo hình thức PPP của các cơ quan nhà nước. Nội dung chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định sử dụng tài sản công để tham gia dự án PPP và chế độ báo cáo được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 151/2017/NĐ-CP (Chương II Mục 4). Đầu tư theo hình thức PPP là một trong các hình thức đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công Đỉều 30). Bên cạnh đó, Điều 44 và Điều 117 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công cũng quy định các nguyên tắc về việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức hợp đồng BT.

Bên cạnh đó, việc sử dụng tài sản công để tham gia vào dự án PPP hoặc thanh toán cho dự án BT tại các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp cũng đã được quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 68); đặc biệt, việc sử dụng tài sản công tại cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam trong dự án PPP, xây dựng trụ sở làm việc theo hình thức PPP được quy định chi tiết tại Nghị định số 165/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 (Điều 10 và Điều 11).

– Pháp luật về đất đai:

Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (Khoản 3 Điều 155) đã có quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử đụng đất và trách nhiệm Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án BT, BOT, BOT và các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Nghị định số 45/2014/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất (Điều 4 Khoản 2), Nghị định số 46/2014/NĐ-CP về tiền thuê đất, thuê mặt nước (Điều 23) quy định cơ chế nhà đầu tư ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng và khoản tiền này được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải nộp.

– Pháp luật về xây dựng:

Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 chỉ đề cập đến dự án PPP ở hai nội dung bao gồm: (1) Định nghĩa chủ đầu tư trong hợp đồng PPP là doanh nghiệp dự án do nhà đầu tư thành lập; (2) Thẩm quyền thẩm định thiết kế cơ sở dự án PPP có vốn Nhà nước tham gia thực hiện dự án là cơ quan chuyên môn về xây dựng theo phân cấp.

Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 3) quy định dự án PPP có cấu phần xây dựng được quản lý như đối với dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, theo đó một số nội dung như thiết kế, dự toán xây dựng của nhà đầu tư (sau khi đã ký kết hợp đồng) phải được cơ quan chuyên môn về xây dựng thấm định.

– Pháp luật về ngân sách nhà nước:

Việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong dự án PPP tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật về ngân sách nhà nước; chưa có quy định dành riêng cho dự án PPP.

– Pháp luật liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu tư:

Về ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư năm 2005 và được sửa đổi năm 2014 đều có quy định về nội dung ưu đãi đối với nhà đầu tư. Căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu từng dự án cụ thể, từng ngành nghề, địa bàn đầu tư, nhà đầu tư sẽ được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất. Những ưu đãi này góp phần tích cực tác động các nhà đầu tư khi họ đưa ra quyết định đầu tư dự án.

Ngoài ra, đối với từng ngành, lĩnh vực, một hệ thống các quy định hỗ trợ đầu tư đã được ban hành:

+ Đối với lĩnh vực khuyến khích thực hiện theo hình thức xã hội hóa (y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường): Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP quy định về chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực này; theo đó, nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (từ 25% xuống còn 10%).

+ Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP (thay thế Nghị định sồ 61/2010/NĐ-CP), Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng cước phí vận tải.

Ảnh minh họa: sưu tầm

+ Đối với lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 02/11/2009 về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn, liên bộ Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT đã có Thông tư số 37/2014/TTLT-BNNPTNT-BTC-BKHĐT quy định về các chính sách ưu đãi này. Cụ thể bao gồm chính sách về đất đai, về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động vốn, hỗ trợ giá tiêu thụ nước sạch. Ngoài thực hiện chính sách thu hút nhà đầu tư, việc đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ này còn đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong nông nghiệp, nông thôn.

+ Đối với lĩnh vực thoát nước, xử lý nước thải: Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2018/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải, trong đó Điều 38 quy định về cơ chế ngân sách nhà nước cấp bù chi phí thoát nước, xử lý nước thải cho nhà đầu tư trong trường hợp giá dịch vụ xử lý nước thải thu từ người sử dụng (do UBND cấp tỉnh phê duyệt) chưa tính đúng, tính đủ chi phí của nhà đầu tư.

+ Đối với lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT: Từ năm 2008 đến năm 2018, Chính phủ đã lần lượt ban hành các Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 114/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 82/2018/NĐ-CP. Theo đó, các Nghị định này đều quy định đầu tư theo hình thức PPP (trước năm 2018 là các loại hợp đồng BOT, BT, BTO) là một trong các hình thức thu hút vốn phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế.

– Pháp luật về sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển:

Chính phủ đã ban hành Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP. Theo quy định tại các Nghị định này, việc sử dụng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chỉ được áp dụng đối với các dự án thuộc một số ngành quan trọng và chương trình kinh tế lớn có hiệu quả kinh tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay do Chính phủ quy định bao gồm các dự án xây dựng công trình cấp nước phục vụ sinh hoạt; các dự án xử lý nước thải, rác thải tại khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề; dự án xây dựng quỹ nhà tập trung cho công nhân lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, ký túc xá sinh viên…

– Pháp luật về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):

Các văn bản điều chỉnh hoạt động này lần lượt là Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001, Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/3/2016, Nghị định số 132/2018/NĐ-CP ngày 01/10/2018 và các Thông tư hướng dẫn.

Ngoài ra, việc thực hiện dự án PPP cũng tuân thủ các pháp luật chuyên ngành khác có liên quan trong từng lĩnh vực như pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, về ngoại hối (đối với các dự án có nhà đầu tư nước ngoài).

(Nguồn: Báo cáo số 25/BC-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về tổng kết tình hình thực hiện dự án PPP)

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.


Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:


Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.


Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

Các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (cập nhật đến tháng 12/2020)

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 8 nhóm sản phẩm với 94 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.


A) HÀNG HÓA XUẤT XỨ TỪ TRUNG QUỐC

1) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


2) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 9,05%~23,71%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


3) Nhóm sản phẩm Nhôm, hợp kim hoặc không hợp kim, dạng thanh, que và hình (tiếng Anh: Aluminum, alloy or nonalloy which are in bar, stick and shape form)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,49%~35,58%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 9 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 2942/QĐ-BCT ngày 28/09/2019 Áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm nhôm có xuất xứ từ Trung Hoa


4) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,53%~34,27%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


5) Nhóm sản phẩm Thép hình chữ H (tiếng Anh: H-shaped steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn Rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 19,30%~29,17%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3024/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép hình chữ H


6) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3,17%~38,34%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


7) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


8) Nhóm sản phẩm Thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,43%~25,52%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 10 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bảnQuyết định số 3390/QĐ-BCT ngày 21/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm có xuất xứ từ Trung Hoa


B) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ ĐÀI LOAN:

9) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: 37,29%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 209 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


C) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ THÁI LAN

10) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,30%~20,35%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


D) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ HÀN QUỐC

11) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,71%~19,25%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


12) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 7,02%~19,00%

- Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


F) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ INDONESIA

13) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


14) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 10,91%~25,06%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


I) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ MALAYSIA

15) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 18,87%~23,42%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a  


16) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

- Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

- Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

- Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

- Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

- Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan

Một số chia sẻ hữu ích về các vấn đề liên quan đến học luật, hành nghề luật

1. Để gia tăng cơ hội về việc làm khi ra trường, sinh viên nên:

(i) nắm vững các kiến thức cơ bản về pháp lý, ví dụ như hiểu được hệ thống văn bản pháp luật, phân biệt được văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật, tra cứu văn bản, xác định đúng luật, quy phạm pháp luật áp dụng và phân tích được quy định đó;

(ii) trau dồi các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, làm việc với cơ quan nhà nước;

(iii) rèn giũa tính cẩn thận;

(iv) rèn luyện kỹ năng research, phân tích.

(v) thành thạo kỹ năng office (Word – thuần thục; Excel và Powerpoint có thể ở mức cơ bản). Đối với word, các bạn cần nắm rõ các kỹ năng nâng cao như trackchange, compare, tạo table of content, cross-reference, headings, …

(vi) chuẩn bị tiếng anh tốt; nếu giỏi cả 4 kỹ năng thì quá tốt, còn không, hãy cố gắng thành thạo trong kỹ năng đọc và viết. Bạn sẽ được yêu cầu đọc tài liệu bằng tiếng Anh, viết các thư tư vấn, phân tích pháp lý bằng tiếng Anh trong công việc. Ngoài ra, bạn sẽ được yêu cầu dịch các tài liệu từ Anh sang Việt và ngược lạị.

2. Những yếu tố cần thiết khi bắt đầu làm ở một Công ty Luật là gì?

Với 1 fresher, có một số yếu tố cần thiết để làm việc tốt ở 1 law firm:

(i) Tinh thần và khả năng tự học hỏi: Cường độ và tốc độ công việc ở law firm khá khắc nghiệt, vì vậy để có một người cầm tay chỉ việc cho em sẽ là không có. Em sẽ cần tối đa khả năng tự học hỏi của mình, từ quan sát, từ rút kinh nghiệm những feedback của supervisor;

(ii) Sẵn sàng chịu áp lực từ khối lượng công việc lớn: chắc mọi người đều hiểu áp lực công việc của law firm là thế nào. Hãy chuẩn bị trước tinh thần làm việc overtime, over the weekend or even over-night;

(iii) tư duy phản biện: nôm na là tư duy từ cả 2 phía, hay còn gọi là critical thinking. Không nhìn từ một phía để đánh giá 1 vấn đề; và 

(iv) Tiếng anh ở mức khá, nếu làm việc ở law firm lớn.

3. Những điều nên và không nên làm khi nhận và xử lý công việc từ cấp trên:

Đối với công việc từ cấp trên, việc đầu tiên bạn cần thể hiện là thái độ cầu thị và nghiêm túc khi nhận yêu cầu công việc. Khi bạn nghe qua không rõ hoặc chưa hiểu vấn đề nào, nếu cấp trên đang có thời gian rảnh, bạn có thể trao đổi trực tiếp. Nếu công việc đang gấp, bạn có thể nghiên cứu trước và vạch ra những câu hỏi cần trao đổi với cấp trên để hoàn thành công việc. Tất nhiên với mỗi người cấp trên có cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, và tư duy của bạn rất quan trọng, nhưng thái độ cầu thị và ham học hỏi thường sẽ là thang đánh giá của cấp trên đối với những bạn vừa ra trường đi làm. Mặt khác, em có thể trực tiếp hỏi xin thêm việc để được tham gia vào nhiều công việc khác nhau (tất nhiên là vẫn đảm bảo không ảnh hưởng đến deadlines những công việc khác). 

Liên quan đến deadline, bạn nên hỏi rõ về timeline. Bạn cần biết rõ khi nào cần báo cáo kết quả và liệu timeline đó có khả thi với bạn không. Nếu không, bạn cần nói rõ với cấp trên để xem xét dời deadline. Tuyệt đối không được nhận khi biết mình không thể hoàn thành đúng deadline, điều này sẽ gây khó khăn cho cấp trên và có thể làm lỡ việc với khách hàng. Nếu giữa chừng bạn cảm thấy không thể đúng hạn, bạn cần thảo luận lại với cấp trên để có hướng xử lý. Không nên im lặng rồi sau đó trễ deadline.

4. Trong quá trình hành nghề luật bắt đầu từ vị trí paralegal đến khi thành associate, anh chị đã gặp những khó khăn nào?

Trong giai đoạn đầu khi đi từ fresh graduate đến khi trở thành mid level, ai cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và mỗi môi trường công ty có những khó khăn đặc thù nhất định. Tuy nhiên, bạn hãy hiểu rằng mỗi khó khăn như vậy là một bài học để bạn phát triển bản thân mình. Có một thực tế là kinh nghiệm và kỹ năng tích lũy được sau mỗi lần gặp sai lầm và sửa chữa sẽ nhiều hơn là áp dụng một công thức duy nhất để làm cho xong việc. 

Một điều nữa mình muốn chia sẻ là mới đi làm và trong giai đoạn học hỏi kinh nghiệm trong nghề luật thì tuyệt đối không ngại việc và không ngại rắc rối. Hãy nghĩ rằng nghề luật sư chính là mua rắc rối của khách hàng vào mình để giải quyết, nên bản thân bạn cần giữ thái độ bình tĩnh với các rắc rối và luôn tin rằng sẽ có cách giải quyết cho mọi vấn đề.

Mỗi người có mỗi trải nghiệm khác nhau, tuy nhiên đối với nghề luật sư, theo mình, kim chỉ nam là “Tư duy và giải pháp”. Tư duy là thứ em sẽ cần để nhìn nhận và xác định vấn đề, đồng thời luôn cố gắng tìm ra giải pháp cho khách hàng, đừng chỉ đưa văn bản pháp luật mà không có bất kỳ một kết luận hay giải pháp nào. Thứ khách hàng nhìn vào hầu như chỉ là câu kết luận và giải pháp mà em cung cấp cho họ. 

(Tác giả: Luật sư Trần Viết Quân - http://vietnamlawmentor.com)

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp


Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất


Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)


Hợp Đồng Cho Mượn Đất


HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)


HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)


HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

Quyết định 199/QĐ-CA về việc công bố án lệ

Ngày 17/10/2018, Hội Đồng Thẩm Phán TAND Tối Cao đã công bố thêm 11 án lệ mới theo Quyết định số 199/QĐ-CA về việc công bố án lệ, bao gồm: 4 án lệ về hình sự; 1 án lệ về lao động; 6 án lệ về Dân sự và Kinh doanh thương mại. Như vậy, tính đến hết năm 2018, đã có tất cả 27 án lệ được công bố tại Việt Nam. Caselaw Việt Nam đang cập nội dung án lệ đính kèm văn bản. 

Xem thêm: Tuyển tập 20 dự thảo án lệ năm 2018 tại: https://caselaw.vn/tong-hop-ban-an/tuyen-tap-20-du-thao-an-le-nam-2018


Tóm tắt nội dung các án lệ mới vừa được công bố gồm:

1. Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” đối với người giúp sức trong tội “Giết người” .

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 07/2018/HS-GĐT ngày 20-3-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1977; trú tại phố A, thị trấn C, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế (Ngoài ra trong vụ án này còn có các bị cáo Trần Quang V, Phạm Nhật T bị kết án về tội “Giết người”; Dương Quang L bị kết án về tội “Che giấu tội phạm”).  Bị hại: Ông Dương Quang Q.

2. Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”.

Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 331/2018/HS-PT ngày 28-5-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Phan Thành H, tên gọi khác: Đ; sinh ngày: 02-2-1995; nơi đăng ký HKTT: Xã C, huyện D, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Định.  Bị hại: Anh Nguyễn Anh Đ.

3. Án lệ số 19/2018/AL về tình tiết phạm tội “có tổ chức” trong tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 10/2013/HS-GĐT ngày 22-7-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với các bị cáo: (1) Phan Chí L sinh năm 1950; trú tại khu phố B, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị.(2) Nguyễn Thị H sinh năm 1959; trú tại khu phố B, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Bị hại: có 30 người bị hại, trú tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa.

4. Án lệ số 20/2018/AL về xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong “Tội tham ô tài sản”

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 09/2015/HS-GĐT ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tham ô tài sản” đối với bị cáo: Võ Thị Ánh N, sinh năm 1981; trú tại số 17, đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Bình Định. Ngoài ra, trong vụ án còn có Phan Thị Q bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Võ Thị Kim T bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”.

5. Án lệ số 21/2018/AL về xác lập quan hệ hợp đồng lao động theo loại hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc trong thư mời làm việc

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/LĐ-GĐT ngày 09-8-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án lao động “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” tại tỉnh Bình Thuận giữa nguyên đơn là ông Trần Công T với bị đơn là công ty trách nhiệm hữu hạn L (đại diện theo pháp luật là ông H).

6. Án lệ số 22/2018/AL về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 08/2016/KDTM-GĐT ngày 20-5-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản” tại tỉnh Quảng Ninh giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn D với bị đơn là Công ty cổ phần C.

7. Án lệ số 23/2018/AL về nghĩa vụ cung cấp thông tin về tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm

Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16-3-2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là ông Đặng Văn L (người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng Văn L là ông Trần Xuân H) với bị đơn là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ C (người đại diện theo ủy quyền là ông Hoàng P, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là ông Đinh Quang T, ông Trần Ngọc T).

8. Án lệ số 24/2018/AL về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm

Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31-3-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị T với bị đơn là Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Minh N.

9. Án lệ số 25/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16-10-2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.

10. Án lệ số 26/2018/AL về đặt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 79/2012/DS-GĐT ngày 23-02-2012 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là ông Phan Thanh L với bị đơn là bà Trương Hồng Ngọc H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T.

11. Án lệ số 27/2017/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27-3-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “tranh chấp thừa kế tài sản và chia tài sản chung” ở Hà Nội giữa nguyên đơn là ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1. Người đại diện cho các đồng nguyên đơn là bà Cấn Thị N2 và bị đơn là cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo ủy quyền là: Ông Lê Hồng L. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 07 người.

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

6. THĂNG TIẾN

Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

8. DANH TIẾNG

Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

9. PARTNER so với TBPC

Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

Chúc may mắn!

Cảnh cáo thư ký tòa “mua nhà cứu bị đơn”

Xem thêm:
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hội đồng Kỷ luật TAND TPHCM đã ra hình thức kỷ luật là cảnh cáo thư ký Nguyễn Đoàn Nam Hà. Hiện nay, Hà không được làm thư ký nghiệp vụ mà làm cán bộ tòa án. Hà bị cảnh cáo vì đã can thiệp vào một vụ án đòi tiền đặt cọc nhà
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, cho biết như trên và nói trước đó, lãnh đạo tòa Bình Thạnh đã báo cáo vụ tiêu cực của thư ký Hà với TAND TPHCM. Nội dung vụ việc như sau:
Ông Trần Văn Hùng mua căn nhà số 82/150A Bùi Đình Túy của ông Nguyễn Tăng Phú Nhuận. Cả hai thống nhất giá bán căn nhà là 75 lượng vàng và ghi rõ: “Anh Nhuận chịu trách nhiệm lo đầy đủ giấy tờ ra tên anh Hùng đứng giấy chủ quyền nhà và sử dụng đất”.
Sau khi nhận 70 lượng vàng đặt cọc, Nhuận luôn lẩn tránh, sau đó, giao giấy tờ photo biên lai cho ông Hùng và nói lên quận hối thúc giấy tờ. Lên Phòng Quản lý Đô thị quận Bình Thạnh, ông Hùng mới hay căn nhà này nằm trong khu giải tỏa. Ông Hùng đòi lại tiền đặt cọc nhưng Nhuận lánh mặt. Ngày 3-3-2003, ông Hùng kiện Nhuận ra TAND quận Bình Thạnh đòi 70 cây vàng đặt cọc.

Bàn việc ở quán cà phê
Để tránh việc tẩu tán tài sản, ông Hùng đã yêu cầu TAND quận Bình Thạnh kê biên nhà của Nhuận, đó là nhà số 140/80 Phan Văn Trị.
Ông Hùng kể: “Ngày 26-3-2004, tôi đến phòng của thẩm phán Trần Văn Huệ để nhận quyết định kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị thì Hà có mặt ở đó và đi theo năn nỉ tôi cho gặp riêng. Tại quán cà phê ở quận 1, thư ký Hà tỏ ý muốn mua căn nhà mà Nhuận đã bán cho tôi với giá 80 cây vàng, sẽ đưa trước 160 triệu đồng và yêu cầu tôi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị”.
Ông Hùng nói đây là chiêu thức để Hà đưa ông vào tròng. Nếu ông bán căn nhà cho Hà và nhận 160 triệu đồng đặt cọc rồi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 cho Nhuận thì Nhuận sẽ bán căn nhà này, lúc đó ông Hùng không còn gì để bảo đảm có thể thu lại được số vàng đặt cọc, còn Hà sẽ không mua nhà của ông.

Giấy triệu tập hay đương sự không đến?
Theo ông Hùng, vì TAND quận Bình Thạnh cho rằng nhà này có yếu tố người nước ngoài (chủ cũ đi nước ngoài) cùng với việc Nhuận không đến tòa theo giấy triệu tập nên vụ án cho đến giờ vẫn chưa ngã ngũ.
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, nói ông Hùng cho rằng tòa cố tình kéo dài vụ án là không đúng, vì tòa có gửi giấy triệu tập nhiều lần nhưng ông Hùng không đến.
Ông Hùng giải thích tòa Bình Thạnh triệu tập ông nhiều lần là từ khi thẩm phán Trần Văn Huệ thụ lý (trước đó do thẩm phán khác thụ lý). Tuy nhiên, lúc ấy ông đã bán nhà nên không nhận được thư triệu tập và ông có để lại số điện thoại nhưng tòa không liên lạc.
Chánh án TAND TPHCM Bùi Hoàng Danh khẳng định đã chỉ đạo TAND quận Bình Thạnh kiểm tra chặt chẽ vụ án này để xét xử nghiêm minh.
------------------
Thư ký tòa “ làm nhà đất” lâu rồi
Thư ký Hà: Chỉ có bán căn nhà này, em với thằng Nhuận mới xoay nổi sự việc thôi...
Ông Hùng: Em làm ăn với nó (Nhuận) mấy năm rồi?
Hà: Dạ cũng lâu rồi, làm cũng được vài căn rồi... Giấy tờ em chuẩn bị sẵn đây, em viết liền cho anh...
Ông Hùng: Một là cách này, hai là em về tòa với anh viết giấy em đồng ý chịu trách nhiệm đứng ra giải quyết thay thế Nguyễn Tăng Phú Nhuận.
Hà: Không,... vì em viết giấy ra tòa cũng đâu chấp nhận, về pháp lý em là người không liên quan đến vụ án, em đâu có thể nhận trách nhiệm, nếu làm được em đã làm rồi.
Ông Hùng: Tại vì cái nhà kia nó không cần bán, cứ để hoài nên anh phải chuyển qua kê biên căn nhà này...
Hà: Anh khỏi cần kê biên căn nhà nào hết..., em bán cực nhanh rồi giao hết tiền cho anh. Em hứa với anh trong vòng 7 ngày mà không đưa hết tiền cho anh, em là con chó...
(Trích băng ghi âm cuộc trao đổi giữa ông Hùng và thư ký Hà ngày 26-3-2004)
(Theo Bích Phượng, www.nld.com.vn, 28/09/2004 05:23)