cơ sở dữ liệu pháp lý

Dự thảo án lệ 18 (đợt 3): Án lệ về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng

 

Án lệ số /2017/AL về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày… tháng … năm 2017và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 461/2014/DS-GĐT ngày 24-11-2014 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế” tại tỉnh Đắk Lắk giữa nguyên đơn làcụA với bị đơn là ông H, bà K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Ủy ban nhân dân thành phố X, Ngân hàng Y.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ:

Người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài đã giao đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng; người Việt Nam ở trong nước đã sử dụng đất đó ổn định, lâu dài và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người đã giao đất, khi người đó trở về Việt Nam sinh sống thì không có quyền đòi lại đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Mục 3 phần III, mục 3 phần V Quyết định số 201-HĐCP/QĐ ngày 01-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; Điều 14 Luật đất đai năm 1987, Điều 26 Luật đất đai năm 1993, khoản 11 Điều 38 Luật đất đai năm 2003 (tương ứng với điểm h khoản 1 Điều 64 Luật đất đai năm 2013), Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (tương ứng với Điều 100 Luật đất đai năm 2013).

Từ khóa của án lệ:

“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”; “Người Việt Nam ở trong nước”; “Giao đất nông nghiệp”, “Thu hồi đất nông nghiệp”; “Đòi lại đất”; “Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ A, do ông M đại diện trình bày:

Năm 1978 vợ chồng cụ A và cụ B cho ông H diện tích đất 5 sào có làm giấy cho trong đó xác định tứ cận phía đông giáp đất ông Lạc, phía tây giáp đất bà Nguyễn Thị Thanh, phía nam giáp đất người Thượng, phía bắc giáp quốc lộ 14. Sau khi cho đất thì vào năm 1982 và 1983 ông H bán diện tích đất này cho ông Nguyễn Đăng Nhật và ông Nguyễn Văn Biểu. Khi ông H bán hết diện tích đất được cho thì cụ A cho ông H diện tích đất kế bên với diện tích là 150m2, khi cho không lập văn bản. Đến năm 2005 cụ A cho ông H căn nhà và diện tích đất được xác định tứ cận là phía đông giáp đất ông Nguyễn Văn Biểu, phía tây và phía nam giáp đất còn lại của gia đình, phía bắc giáp quốc lộ 14.

Năm 2005 cụ A lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 09-3-2006 cụ A được Ủy ban nhân dân thành phố X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 516166 thửa số 9 tờ bản đồ 58 diện tích 10.112,4m2, mục đích sử dụng trồng cây hàng năm, thời hạn sử dụng đến năm 2013 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 516165 thửa đất số 9A, tờ bản đồ 58, diện tích 300m2 mục đích sử dụng đất ở đô thị cho cụ A và cụ B. Tháng 11-2006 cụ A có đơn xin điều chỉnh và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp với hiện trạng đã xây nhà trên đất, ngày 24-11-2006 Ủy ban nhân dân thành phố X đã ban hành Quyết định số 762/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận số AD 516165 và AD 516166 cấp đổi thành các Giấy chứng nhận mới số AG 680769 và AG 680768 cho cụ A và cụ B.

Ngày 19-6-2009 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố X ban hành Quyết định số 1654/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận mang số AG 680769 và AG 680768 đã cấp cho cụ A và cụ B với lý do giấy chứng nhận đã cấp có sự chồng lấn lên phần diện tích và trùng số thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H. Cụ A đã khiếu nại rồi khởi kiện hành chính đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố X về việc ban hành Quyết định số 1654/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 680769 và AG 680768. Hiện nay vụ kiện đang bị tạm đình chỉ giải quyết do cụ A khởi kiện ông H đòi lại đất vì ông H chiếm giữ và giả mạo giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H.

Năm 2005 ông H dùng bản photo giấy cho đất tự sửa chữa toàn bộ vị trí thửa đất, phía nam giáp đất ông Đoàn, phía bắc giáp quốc lộ 14 rồi photo lại dùng làm tài liệu kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời ông H làm giấy xác nhận mất giấy tờ gốc xin Ủy ban nhân dân phường E, trên cơ sở tài liệu này Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H 4.925,5m2 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 cho thửa 9A, tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 cho thửa 09 tờ bản đồ số 58 với diện tích 4.624m2).

Như vậy, việc ông H đã giả mạo giấy cho đất (sửa chữa tứ cận) cố tình gian dối khi kê khai để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là trái pháp luật, việc Ủy ban nhân dân thành phố X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là không đúng thực tế, phần đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H vẫn thuộc quyền sử dụng của cụ A, cụ B từ trước 1975 đến nay và cụ A, cụ B đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Do đó cụ A đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết buộc ông H và bà K trả lại 4.775,4m2cho cụ A, đồng thời hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H và bà K (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 đã cấp đối với thửa 9A, tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 thửa số 09 tờ bản đồ số 58 diện tích 4.624m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X cấp.

Bị đơn là ông H trình bày:

Năm 1978 cha mẹ của ông là cụ A và cụ B có cho vợ chồng ông căn nhà và lô đất trồng cây ăn trái, tổng diện tích đất là 05 sào, khi cho có làm giấy cho nhà và tứ cận được xác định phía đông giáp đất ông Lạc, phía tây giáp đất bà Nguyễn Thị Thanh, phía nam giáp đất người Thượng, phía Bắc giáp quốc lộ 14. Năm 1982, cụ A có bán cho ông Nguyễn Đăng Nhật 01 sào phần diện tích đất cha mẹ đã cho ông, năm 1985 còn lại 4 sào cụ B bán cho ông Nguyễn Văn Biểu. Sau khi cha mẹ bán đất thì cha mẹ cho vợ chồng ông 5 sào liền kề. Diện tích đất cha mẹ cho vợ chồng ông năm 1978 chưa biết giáp ai nên cụ B để trống sau khi bán xong cha mẹ cho lại 5 sào kề bên nên ông mới đề vào giáp đất ông Biểu với giáp đất nhà và xác nhận của Quốc doanh chiếu bóng thuộc Ty văn hóa tỉnh Đắk Lắk, Hội nông dân tập thể xã E và Ủy ban nhân dân xã E. Sau khi bán đất xong cha mẹ định cư tại Cộng hòa liên bang Đức.

Đến năm 2004 cụ A hồi hương, trước đó ông có gửi cho bà Nguyễn Thị Thanh tất cả giấy tờ nhà và đất, đến năm 2005 vợ chồng ông có lên hỏi đòi lại giấy tờ nhà đất thì bà Thanh trả lại toàn bộ giấy tờ photo, còn giấy cho nhà và đất giấy gốc có con dấu của các cơ quan hiện tại cụ A đang giữ, ông mang toàn bộ giấy tờ photo kèm theo hai bản quyết định trồng cà phê 1980 và 1990 của Ủy ban nhân dân thị xã X lên Ủy ban nhân dân phường E để hỏi có làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thì Ủy ban nhân dân phường E hướng dẫn ông cần phải được mẹ và các anh em ở Việt Nam ký và xác nhận năm 1978 có cho vợ chồng ông căn nhà 150m2 và 3,5 sào đất trồng cây ăn trái đúng như trong giấy tờ gốc.

Sau khi về nói với cụ A (cụ B đã chết) thì cụ A có làm đơn xác nhận là năm 1978 có cho vợ chồng ông căn nhà và mấy sào đất trồng cây ăn trái. Cụ A ký, anh Nguyễn Văn Thiện (nay đã chết), em Nguyễn Thị Thanh đều ký xác nhận năm 2005, nên ông mang đến Ủy ban nhân dân phường E xem xét và được Ủy ban nhân dân phường chấp nhận và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông.

Năm 2006 cụ A có làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Ủy ban nhân dân thành phố X cấp chồng lên diện tích đất của vợ chồng ông và kiện vợ chồng ông là lừa đảo, chiếm đoạt đất của cụ A.

Theo đơn khởi kiện của cụ A buộc vợ chồng ông trả lại diện tích đất 4.775,4m2 đất thuộc các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 đã trừ đi 150m2 của vợ chồng ông, vợ chồng ông không chấp nhận yêu cầu của cụ A, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông là hợp pháp và khi cấp thì không ai khiếu nại gì, do đó đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho vợ chồng ông.

Diện tích hai lô đất trên vợ chồng ông đã thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Y với số tiền 3.000.000.000 đồng, Ngân hàng đã khởi kiện và hiện thi hành án đã kê biên lô đất 300,5m2.

Ngoài những ý kiến trên thì ông không có ý kiến nào khác.

Bị đơn là bà K nhất trí với lời trình bày của chồng là ông H, không có ý kiến trình bày gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố X, do ông N là đại diện theo ủy quyền trình bày: việc Ủy ban nhân dân thành phố X cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà K là đúng trình tự thủ tục. Nay giữa cụ A và ông H, bà K có tranh chấp quyền sử dụng đất thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Y, do ông P là đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngân hàng Y nhận thế chấp tài sản của ông H, bà K khi cho ông H và bà K vay vốn là ngay tình, đăng ký thế chấp đúng theo quy định của pháp luật. Nay các bên có tranh chấp liên quan đến tài sản đã thế chấp vay vốn của Ngân hàng thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DS-ST ngày 06-9-2013, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ A về việc yêu cầu ông H và bà K trả lại diện tích đất 4.775,4m2 cho cụ A và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H và bà K số: AD 579302 thửa 9A tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AD 579313 thửa số 09 tờ bản đồ số 58 diện tích 4.624m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X cấp.

Tòa án còn quyết định về án phí và nghĩa vụ chậm thi hành án.

Ngày 09-9-2013, cụ A kháng cáo.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk kháng nghị phúc thẩm bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2014/DSPT ngày 14-01-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã sửa bản án dân sự sơ thẩm như sau:

Công nhận quyền sử dụng đất 4.775,4m2 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624,9m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp cho vợ chồng ông H và bà K ngày 26-12-2005 (sau khi khấu trừ 150m2 cụ A đã cho ông H năm 2005) thuộc quyền quản lý, sử dụng của cụ A – Khấu trừ diện tích đất thu hồi 272,8m2 theo Quyết định thu hồi số 4223/QĐ-UBND ngày 24-12-2012 của Ủy ban nhân dân thành phố X và diện tích cụ A tự nguyện cho tại phiên tòa phúc thẩm là 33,74m2. Như vậy, còn lại là 4.468,86m2.

Hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624,9m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp cho vợ chồng ông H và bà K ngày 26-12-2005.

Buộc ông H và bà K phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho cụ A tổng diện tích 4.468,86m2 tọa lạc tại tổ dân phố G, phường E, thành phố X, tỉnh Đắk Lắk có tứ cận: phía bắc giáp quốc lộ 14 (đường Lê Duẩn), phía nam giáp đất cụ A, phía đông giáp đất giao cho ông H, bà K và đất ông Dũng, phía tây giáp đất cụ A.

Ghi nhận sự tự nguyện của cụ A về việc cho ông H và bà K diện tích 33,74m2 và diện tích 150m2 cho năm 2005. Tổng cộng là 183,74m2 có tứ cận: phía bắc giáp quốc lộ 14 kích thước 6,03m; phía nam giáp đất cụ A kích thước 6,03m; phía đông giáp đất ông Dũng kích thước 30,47m; phía tây giáp phần đất trả cho cụ A kích thước 30,47m.

Ông H, bà K, Ngân hàng Y và ông S có đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 343/2014/DS-KN ngày 16-9-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DSST ngày 06-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Vợ chồng cụ B (chết năm 1998), cụ A sử dụng 29.418,27m2 đất tọa lạc tại phường E, thành phố X , tỉnh Đắk Lắk từ trước năm 1975.

Năm 1983 vợ chồng cụ A, cụ B đã xuất cảnh sang định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, toàn bộ diện tích đất nêu trên giao lại cho các con ở trong nước sử dụng, trong đó giao cho vợ chồng ông H, bà K một phần diện tích và năm 2005 vợ chồng ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng với diện tích 4.924m2 (gồm 300,5m2 đất ở và 4.624,9m2 đất nông nghiệp).

Năm 2004, cụ A hồi hương và được các con giao lại một số diện tích đất để sử dụng; năm 2006 cụ A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có cả diện tích đất mà vợ chồng ông H đang sử dụng. Sau đó, Ủy ban nhân dân thành phố X kiểm tra phát hiện phần diện tích đất cấp quyền sử dụng đất cho cụ A đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H năm 2005 nên đã ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho cụ A. Khi Tòa án giải quyết tranh chấp đất, Ủy ban nhân dân thành phố X vẫn xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là đúng.

Như vậy, tuy diện tích đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ A, cụ B nhưng hai cụ đi nước ngoài nên đã giao cho vợ chồng ông H, bà K sử dụng từ năm 1983 và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005. Đối với diện tích đất nông nghiệp 4.624,9m2 khi cụ A, cụ B đi định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, nếu không giao cho ông H sử dụng thì cũng bị Nhà nước thu hồi, vợ chồng ông H đã có quá trình sử dụng ổn định, lâu dài và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hai cụ.

Đối với 300,5m2 đất ở thì cụ A đã đồng ý cho ông H 150m2, phần còn lại là di sản thừa kế của cụ B nên cụ A không có quyền đòi lại toàn bộ phần diện tích đất này.

Mặt khác, năm 2009 ông H đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng Y để vay tiền. Do ông H không trả được nợ nên Ngân hàng đã khởi kiện. Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 47/2011/QĐDSST-KDTM ngày 17-6-2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk công nhận sự thỏa thuận của ông H và Ngân hàng trong đó có nội dung nếu đến hết ngày 07-7-2011 ông H không trả nợ 3.571.466.666 đồng thì Ngân hàng có quyền cưỡng chế phát mại tài sản thế chấp. Do ông H không thực hiện được thỏa thuận nên Ngân hàng đã tiến hành tổ chức bán đấu giá tài sản là diện tích đất tranh chấp (đấu giá thành ngày 30-10-2012 và ngày 06-6-2013), ông S là người mua trúng đấu giá tài sản. Như vậy, diện tích đất tranh chấp đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án năm 2011, năm 2012 cụ A mới tranh chấp và tài sản tranh chấp đã được đem bán đấu giá thành, nhưng khi xét xử phúc thẩm (ngày 14-01-2014) Tòa án cấp phúc thẩm lại buộc ông H, bà K trả toàn bộ đất cho cụ A (trừ phần đất đã làm nhà 180m2) là không đúng, không thể thi hành được bản án và không đảm bảo quyền lợi của ông H, Ngân hàng và ông S.

Do đó, xét thấy cần phải hủy cả bản án dân sự sơ thẩm để đưa ông S tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới giải quyết toàn diện vụ án.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Chấp nhận Kháng nghị số 343/2014/DS-KN ngày 16-9-2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2014/DSPT ngày 14-01-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DSST ngày 06-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế” giữa nguyên đơn là cụ A với bị đơn là vợ chồng ông H, bà K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố X và Ngân hàng Y.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm lại lại theo đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Như vậy, tuy diện tích đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ A, cụ B nhưng hai cụ đi nước ngoài nên đã giao cho vợ chồng ông H, bà K sử dụng từ năm 1983 và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005. Đối với diện tích đất nông nghiệp 4.624,9m2 khi cụ A, cụ B đi định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, nếu không giao cho ông H sử dụng thì cũng bị Nhà nước thu hồi, vợ chồng ông H đã có quá trình sử dụng ổn định, lâu dài và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hai cụ.”

(nguồn Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn))

 

 

 

Từ 01/7/2025: 3 thay đổi lớn về chi phí tố tụng mà luật sư tranh tụng cần lưu ý

Ngày 11/12/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Chi phí tố tụng số 05/2024/UBTVQH15, thay thế Pháp lệnh năm 2012. Văn bản mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 với nhiều quy định quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tranh tụng tại Tòa án.

Dưới đây là 3 điểm luật sư tranh tụng cần đặc biệt lưu ý:

1. Thù lao cho bào chữa viên nhân dân: 700.000 đồng/ngày

Theo quy định tại Điều 49, 50 và Danh mục chi phí tố tụng ban hành kèm theo Pháp lệnh, mức chi thù lao cho bào chữa viên nhân dân là 700.000 đồng/người/ngày.

Ngoài ra, bào chữa viên còn được chi trả các khoản:

  • Chi phí đi lại
  • Chi phí thuê phòng nghỉ
  • Phụ cấp lưu trú
  • Chi phí phát sinh khác (nếu có)

Khoản tiền này do cơ quan chỉ định người bào chữa (như Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát…) chi trả từ ngân sách nhà nước.

2. Phụ cấp xét xử cho Hội thẩm: 900.000 đồng/ngày

Hội thẩm nhân dân khi tham gia phiên tòa hoặc nghiên cứu hồ sơ theo sự phân công sẽ được hưởng phụ cấp xét xử là 900.000 đồng/ngày (theo Điều 47).

Nguồn chi được Tòa án bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng chế độ.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tạm ứng chi phí giám định hình sự

Từ ngày 01/7/2025, cơ quan ra quyết định trưng cầu giám định trong vụ án hình sự sẽ có trách nhiệm:

  • Tạm ứng chi phí giám định theo thông báo của đơn vị giám định
  • Chi trả khoản chi phí đó sau khi giám định hoàn tất (Điều 42, 43, 44)

Riêng trường hợp vụ án bị đình chỉ hoặc bị cáo được tuyên không có tội, người bị hại yêu cầu khởi tố sẽ phải hoàn trả lại khoản chi phí giám định. Ngoài ra, nếu người có quyền lợi liên quan yêu cầu giám định, họ sẽ tự chịu chi phí.

Tổng kết

Các quy định mới trong Pháp lệnh Chi phí tố tụng 2024 sẽ tác động trực tiếp đến luật sư, thân chủ và hoạt động tố tụng tại Tòa. Việc nắm bắt sớm và chính xác các khoản chi phí là yếu tố quan trọng giúp luật sư:

  • Tư vấn đầy đủ cho khách hàng
  • Chủ động trong quá trình tố tụng
  • Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của thân chủ

Pháp lệnh 05/2024/UBTVQH15 có hiệu lực từ ngày 01/7/2025.

Dự thảo án lệ số 07/2024 về hiệu lực của hợp đồng đặt cọc

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 07/2024[I]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về hiệu lực của hợp đồng đặt cọc

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày ... tháng ... năm 2024 và được công bố theo Quyết định số .../QĐ-CA ngày ... tháng . năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 296/2023/DS-GĐT ngày 13/12/2023 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” giữa nguyên đơn là bà Lê Thị Tuyết N với bị đơn là ông Nguyễn Xuân Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Hoàng K và chị Nguyễn Thị Hoàng M.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 11, 12, 13 và 14 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Các bên ký kết hợp đồng đặt cọc để bảo đảm cho việc thực hiện giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên. Bên đặt cọc biết đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất đang thế chấp tại ngân hàng nhưng vẫn ký hợp đồng đặt cọc.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập và có hiệu lực.

- Tình huống án lệ 2:

Bên nhận đặt cọc không có quyền sở hữu đối với tài sản chuyển nhượng, không có quyền thực hiện chuyển nhượng tài sản, nhưng được chủ sở hữu tài sản ủy quyền ký kết hợp đồng đặt cọc. Bên đặt cọc biết nhưng không phản đối.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định bên nhận đặt cọc có quyền ký hợp đồng đặt cọc và hợp đồng đặt cọc có hiệu lực.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Từ khoá của án lệ:

“Hiệu lực của hợp đồng đặt cọc”; “Chủ thể ký kết hợp đồng”; “Hợp đồng độc lập”; “Vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc”; “Tài sản đang thế chấp”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết N trình bày: bà và ông Nguyễn Xuân Đ có mối quan hệ họ hàng với nhau. Theo thỏa thuận giữa bà và ông Đ thì ông Đ chuyển nhượng cho 02 thửa đất tại thị trấn T, huyện G giá mỗi thửa đất là 1.500.000.000 đồng. Cụ thể: thửa đất 4011 diện tích 100m2, do chị Nguyễn Thị Hoàng K đứng tên quyền sử dụng đất (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cv 012535 ngày 04/6/2020, được điều chỉnh sang tên chị K vào ngày 23/10/2020); thửa đất 4012 có diện tích 100m2, do chị Nguyễn Thị Hoàng M đứng tên quyền sử dụng đất (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 012536 ngày 04/6/2020, được điều chỉnh sang tên chị M vào ngày 31/7/2020). Ngày 06/4/2022, bà và ông Đ chính thức ký giấy đặt cọc (nhưng ghi nhầm là ngày 06/02/2022) có nội dung: bà đặt cọc số tiền 1.000.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng 02 thửa đất 4011 4012, đến ngày 16/4/2022 ra công chứng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất thì sẽ thanh toán thêm 1.500.000.000 đồng, số tiền còn lại 500.000.000 đồng bà sẽ thanh toán cho ông Đ sau khi sang tên quyền sử dụng đất cho bà. Cùng ngày 06/4/2022, bà chuyển khoản số tiền đặt cọc 1.000.000.000 đồng cho ông Đ. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bà tham khảo ý kiến luật sư thì được biết ông Đ không phải chủ sở hữu đối với tài sản trên nên không có quyền thực hiện việc chuyển nhượng. Do đó, bà gọi điện thoại trao đổi với ông Đ yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, trả lại tiền cọc cho bà thì được ông Đ đồng ý, thời điểm đó ông Đ đang ở Mỹ. Tuy nhiên, sau đó bà tiếp tục liên lạc với ông Đ yêu cầu trả lại tiền cọc thì ông Đ không trả và nói cứ theo pháp luật mà làm. Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giao dịch đặt cọc ngày 06/4/2022, buộc ông Đ trả lại 1.000.000.000 đồng cho bà.

Bị đơn ông Nguyễn Xuân Đ trình bày: chị Nguyễn Thị Hoàng K và chị Nguyễn Thị Hoàng M con ruột của ông. Do các con của ông có nhu cầu chuyển nhượng và bà Tuyết N nhu cầu nhận chuyển nhượng đối với 02 thửa đất trên nên vào ngày 06/4/2022, ông, bà Tuyết N, anh Nguyễn Xuân L và chị M cùng đi xem đất. Sau khi xem đất, mọi người về nhà mẹ ông ở địa chỉ số 414 đường H, thị trấn T, huyện G. Tại đây, ông, bà Tuyết N, chị M thỏa thuận về việc chuyển nhượng hai thửa đất trên, bà Tuyết N có gọi điện thoại bằng facetime trao đổi với chị Nguyễn Thị Hoàng K về việc chuyển nhượng đất; sau đó, hai bên thống nhất giá chuyển nhượng 02 thửa đất là 3.000.000.000 đồng. Hôm đó, ông đến Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh A - Phòng giao dịch G, photo 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đưa cho bà Tuyết N. Ông xác nhận hợp đồng đặt cọc ký vào ngày 06/4/2022, nhưng ghi nhầm là ngày 06/02/2002. Cùng ngày 06/4/2022, bà Tuyết N chuyển tiền vào tài khoản 105868723495 của ông hai lần với số tiền 1.000.000.000 đồng có nội dung “chuyển tiền đặt cọc đất”. Sau khi nhận tiền cọc, ông chuyển lại cho chị K và chị M để mua nhà tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nay, bà Tuyết N khởi kiện yêu cầu ông trả lại tiền đặt cọc, ông không đồng ý, vì việc chuyển nhượng hai thửa đất 4011 4012 là sự thỏa thuận giữa bà Tuyết N với các con của ông, ông chỉ là người đại diện nhận tiền cọc.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị Hoàng K trình bày: trước khi bà Tuyết N với ông Đ ký giấy đặt cọc thì giữa bà Tuyết N với chị và chị M đã thỏa thuận với nhau về giá chuyển nhượng, số tiền đặt cọc, thời gian ký hợp đồng chuyển nhượng, đồng thời thống nhất với nhau để ông Đ đại diện nhận tiền cọc. Theo thỏa thuận thì chị và chị M sẽ chuyển nhượng 02 thửa đất 4011 4012 cho bà Tuyết N, giá chuyển nhượng mỗi thửa đất là 1.500.000.000 đồng. Ngày thỏa thuận cũng là ngày bà Tuyết N đi xem đất. Giấy đặt cọc do bà Tuyết N viết ghi ngày 06/02/2022 ghi nhầm, thực tế là ngày 06/4/2022. Cũng trong ngày 06/4/2022, bà Tuyết N chuyển vào tài khoản của ông Đ số tiền 1.000.000.000 đồng. Ông Đ đã chuyển số tiền này vào tài khoản của chị và chị M. Ngày 07/4/2022, bà Tuyết N gọi điện thoại về cho chị phàn nàn giá chuyển nhượng cao, yêu cầu chị trả lại tiền cọc thì chị không đồng ý, vì số tiền cọc chị đã sử dụng vào việc mua nhà tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, bà Tuyết N nói ngày 16/4/2022 là ngày thứ bảy nên lùi lại ngày 19/4/2022 sẽ ký hợp đồng. Ngày 16/4/2022, chị về thành phố D chờ đến ngày 19/4/2022 để ký hợp đồng. Trong thời gian này, bà Tuyết N gọi điện thoại về phàn nàn giá chuyển nhượng cao và ép chị bán với giá 1.200.000.000 đồng, nhưng chị không đồng ý. Ngày 21/4/2022, chị nhắn tin cho bà Tuyết N đề nghị ký hợp đồng, nhưng bà Tuyết N không phản hồi lại. Những ngày tiếp theo, chị trao đổi với bà Tuyết N với nội dung nếu không nhận chuyển nhượng 02 thửa thì nhận chuyển nhượng 01 thửa với giá 1.600.000.000 đồng hoặc gia hạn đến ngày 31/5/2022 ký hợp đồng, nếu không thì sẽ mất tiền cọc. Do bà Tuyết N vi phạm hợp đồng nên phải chịu mất tiền cọc. Vì vậy, chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết N.

- Chị Nguyễn Thị Hoàng M trình bày: ngày 06/4/2022, chị cùng ông Đ và bà Tuyết N thỏa thuận về việc chuyển nhượng đất, có ông Nguyễn Xuân L đi cùng, sau đó các bên đi xem đất. Chị với bà Tuyết N trực tiếp thỏa thuận giá và phương thức nhận cọc là nhờ ông Đ đứng ra nhận tiền đặt cọc. Ngày 06/4/2022, bà Tuyết N chuyển tiền cọc vào tài khoản của Ông Đ 1.000.000 000 đồng, bà Tuyết N có chụp hình giao dịch chuyển tiền, gửi vào tài khoản zalo của chị với nội dung “bà N chuyển tiền đặt cọc đất”. Sau khi nhận tiền, ông Đ đã chuyển số tiền này vào tài khoản của chị và chị K. Do bà Tuyết N vi phạm hợp đồng nên phải chịu mất tiền cọc. Vì vậy, chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết N.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2022/DS-ST ngày 27/10/2022, Toà án nhân dân huyện Đơn Dương quyết định:

Châp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng dân sự đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết N đối với bị đơn ông Nguyễn Xuân Đ.

Tuyên bố hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/4/2022 (Giấy đặt cọc ghi ngày 06/02/2022) giữa bà Lê Thị Tuyết N với ông Nguyễn Xuân Đ là vô hiệu và hủy hợp đồng này.

Buộc ông Nguyễn Xuân Đ có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Lê Thị Tuyết N số tiền đặt cọc đã nhận là 1.000.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 27/10/2022, ông Nguyễn Xuân Đ, chị Nguyễn Thị Hoàng K, chị Nguyễn Thị Hoàng M kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2023/DS-PT ngày 22/02/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Xuân Đ.

Không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Hoàng K, chị Nguyễn Thị Hoàng M.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng dân sự đặt cọc” của bà Lê Thị Tuyết N đối với ông Nguyễn Xuân Đ.

Tuyên bố Giấy đặt cọc ghi ngày 06/4/2022 (Giấy đặt cọc ghi ngày 06/02/2022) giữa bà Lê Thị Tuyết N với ông Nguyễn Xuân Đ là vô hiệu.

Buộc ông Nguyên Xuân Đ có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Lê Thị Tuyết N số tiền đặt cọc đã nhận là 1.000.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí và tiền lãi nếu đương sự chậm thi hành án.

Ngày 24/4/2023, ông Nguyễn Xuân Đ có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 70/2023/KN-DS ngày 14/8/2023, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2023/DS-PT ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân tình Lâm Đồng. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2022/DS-ST ngày 27/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng đ xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, huỷ cả hai bản án nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cv 012535 ngày 04/6/2020 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 012536 ngày 04/6/2020, thì diện tích 100m2 đất, thửa 4011, tờ bản đồ số 7, thuộc quyền sử dụng của chị Nguyễn Thị Hoàng K và diện tích 100m2 đất, thửa 4012, tờ bản đồ số 7, thuộc quyền sử dng của chị Nguyễn Thị Hoàng M. Ngày 06/4/2022, ông Nguyễn Xuân Đ và bà Lê Thị Tuyết N ký giấy đặt cọc (nhưng ghi nhầm là ngày 06/02/202, được các bên đương sự thừa nhận) có nội dung như sau:

[2] “Tôi ông Nguyễn Xuân Đ có bán cho bà Lê Thị Tuyết N ngụ tại số 3 đường P, thành phố D hai lô đất của các con tôi tên là:

[3] * Nguyễn Thị Hoàng K: CCCD số 06818800253 cấp ngày 13/10/2020, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cv 012535 * Lô: E9 - Thửa 4011, tờ bản đề số 7, diện tích 100m2

[4] * Nguyễn Thị Hoàng M: CCCD số 025491134 cấp ngày 17/5/2020, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cv 012536 * Lô: E8 - Thửa 4012, tờ bản đồ sổ 7, diện tích 100m2

[5] Trị giá mỗi lô đất là: 1.500.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm triệu đồng)

[6] Tổng giá trị hai lô đất là: 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng)

[7] Ông Nguyễn Xuân Đ là bố của hai con trên có nhận cọc trước của bà Lê Thị Tuyết N là 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng)

[8] Ngày 16/4/2022 sau khi ra công chứng quyền sử dụng đất, bà Lê Thị Tuyết N sẽ thanh toán 1.500.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm triệu đồng) số tiền còn lại là 500.000.000 đồng bà N sẽ thanh toán sau khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.”

[9] Cùng ngày 06/4/2022, bà Tuyết N chuyển khoản số tiền đặt cọc 1.000.000.000 đồng cho ông Đ. Sau khi nhận tiền, ông Đ đã chuyển số tiền này cho chị Nguyễn Thị Hoàng K và chị Nguyễn Thị Hoàng M.

[10] Tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Dân sự quy định: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khỉ quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.” Đối chiếu quy định trên thì bà Tuyết N đặt cọc là để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng đối với 02 thửa đất 4011 và 4012.

[11] Qua xem xét quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, thấy rằng: tại Biên bản lấy lời khai đối chất ngày 15/8/2022, bà Tuyết N thừa nhận “Do nhu cầu mua đất ở Đ nên tôi thỏa thuận mua đất với ông Đ và ông Đ trực tiếp điện thoại cho tôi xuống xem đất ở xã S. Tuy nhiên ở xã S quá xa nên có quay lại thị trấn T và thỏa thuận mua 02 lô đất 4011, 4012 với ông Đ. Khi thỏa thuận mua bán đất với ông Đ thì chị M có mặt, chị M có nói giá trị 1.500.000.000 đồng/01lô và chị M có gọi điện thoại cho chị N để chị N nói chuyện với tôi xin ứng tiền cọc 01 tỷ để lấy sổ trong Ngân hàng C phòng giao dịch G ra. Ngày 17/4/2022, tôi có gọi điện thoại cho chị N phàn nàn về việc giá mua đất cao và trình bày ngày 16/4/2022 rơi vào ngày thứ bảy nên rời sang ngày 19/4/2022 ”. Tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bà Tuyết N thừa nhận giữa bà với ông Đ có quan hệ họ hàng với nhau, hợp đồng đặt cọc do bà soạn rồi đưa cho ông Đ ký, số tiền đặt cọc do bà trực tiếp chuyển khoản cho ông Đ.

[12] Như vậy, có căn cứ xác định trong quá trình tham giao dịch giữa bà Tuyết N với ông Đ, chị Hoàng K, chị Hoàng M đã có sự thỏa thuận và thống nhất với nhau về số tiền đặt cọc, giá chuyển nhượng, thời hạn giao kết hợp đồng chuyển nhượng; đồng thời, bà Tuyết N đã biết 02 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của các con ông Đ là chị Hoàng K và chị Hoàng M đang thế chấp tại Ngân hàng C và đồng ý để ông Đ thay mặt chị Hoàng K và chị Hoàng M ký hợp đồng đặt cọc. Do đó, bà Tuyết N cho rằng ông Đ không đủ tư cách mặt chủ thể để ký hợp đồng đặt cọc là không có cơ sở.

[13] Căn cứ quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022 đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nên họp đồng này được xác định là hợp pháp, có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện. Việc bà Tuyết N từ chối ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với chị Hoàng K và chị Hoàng M với lý do giá đất chuyển nhượng quá cao vi phạm thỏa thuận đặt cọc, lỗi hoàn toàn thuộc về bà Tuyết N nên bà Tuyết N phải chịu mất cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Dân sự.

[14] Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc các đương sự đều biết 02 thửa đất 4011 4012 đang thế chấp tại ngân hàng, nhưng vẫn tiến hành ký kết hợp đồng nên hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022 bị vô hiệu là lỗi của hai bên; từ đó, xét xử buộc ông Đ trả lại tiền cọc 1.000.000.000 đồng cho bà Tuyết N là không phản ánh đúng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bởi lẽ, theo sự thỏa thuận và thống nhất của các bên thì đên ngày 19/4/2022, các bên phải thực hiện việc ký kết và công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Như vậy, trường hợp đến ngày 19/4/2022 mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ký kết và công chứng được do tài sản thê chấp tại ngân hàng chưa được giải chấp thì mới xác định bên nhận cọc có lỗi. Mặt khác, hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập, việc các bên thỏa thuận đặt cọc để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên trong thời gian tài sản đang thế chấp tại ngân hàng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng đặt cọc.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 337; khoản 3 Điều 343; Điều 349 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 70/2023/KN-DS ngày 14/8/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2023/DS-PT ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng và Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2022/DS- ST ngày 27/10/2022 của Toà án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

2. Giao hồ sơ vụ ổn cho Toà án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ban hành quyết định này./.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[11] Qua xem xét quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, thấy rằng: tại Biên bản lấy lời khai đối chất ngày 15/8/2022, bà Tuyết N thừa nhận “Do nhu cầu mua đất ở Đ nên tôi thỏa thuận mua đất với ông Đ và ông Đ trực tiếp điện thoại cho tôi xuống xem đất ở xã S. Tuy nhiên ở xã S quá xa nên có quay lại thị trấn T và thỏa thuận mua 02 lô đất 4011, 4012 với ông Đ. Khi thỏa thuận mua bán đất với ông Đ thì chị M có mặt, chị M có nói giá trị 1.500.000.000 đồng/01lô và chị M có gọi điện thoại cho chị N để chị N nói chuyện với tôi xin ứng tiền cọc 01 tỷ để lấy sổ trong Ngân hàng C phòng giao dịch G ra. Ngày 17/4/2022, tôi có gọi điện thoại cho chị N phàn nàn về việc giá mua đất cao và trình bày ngày 16/4/2022 rơi vào ngày thứ bảy nên rời sang ngày 19/4/2022 ”. Tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bà Tuyết N thừa nhận giữa bà với ông Đ có quan hệ họ hàng với nhau, hợp đồng đặt cọc do bà soạn rồi đưa cho ông Đ ký, số tiền đặt cọc do bà trực tiếp chuyển khoản cho ông Đ.

[12] Như vậy, có căn cứ xác định trong quá trình tham giao dịch giữa bà Tuyết N với ông Đ, chị Hoàng K, chị Hoàng M đã có sự thỏa thuận và thống nhất với nhau về số tiền đặt cọc, giá chuyển nhượng, thời hạn giao kết hợp đồng chuyển nhượng; đồng thời, bà Tuyết N đã biết 02 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của các con ông Đ là chị Hoàng K và chị Hoàng M đang thế chấp tại Ngân hàng C và đồng ý để ông Đ thay mặt chị Hoàng K và chị Hoàng M hợp đồng đặt cọc. Do đó, bà Tuyết N cho rằng ông Đ không đủ tư cách mặt chủ thể để ký hợp đồng đặt cọc là không có cơ sở.

[13] Căn cứ quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022 đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nên họp đồng này được xác định là hợp pháp, có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện. Việc bà Tuyết N từ chối ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với chị Hoàng K và chị Hoàng M với lý do giá đất chuyển nhượng quá cao vi phạm thỏa thuận đặt cọc, lỗi hoàn toàn thuộc về bà Tuyết N nên bà Tuyết N phải chịu mất cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Dân sự.

[14] Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc các đương sự đều biết 02 thửa đất 4011 4012 đang thế chấp tại ngân hàng, nhưng vẫn tiến hành ký kết hợp đồng nên hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022 bị vô hiệu là lỗi của hai bên; từ đó, xét xử buộc ông Đ trả lại tiền cọc 1.000.000.000 đồng cho bà Tuyết N là không phản ánh đúng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bởi lẽ, theo sự thỏa thuận và thống nhất của các bên thì đên ngày 19/4/2022, các bên phải thực hiện việc ký kết và công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Như vậy, trường hợp đến ngày 19/4/2022 mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ký kết và công chứng được do tài sản thê chấp tại ngân hàng chưa được giải chấp thì mới xác định bên nhận cọc có lỗi. Mặt khác, hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập, việc các bên thỏa thuận đặt cọc để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên trong thời gian tài sản đang thế chấp tại ngân hàng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng đặt cọc.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

Tranh chấp hợp đồng đặt cọc hiện nay diễn ra rất phổ biến, tuy nhiên việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng đặt cọc trên thực tế còn nhiều vấn đề chưa thống nhất.

Thứ nhất, việc ký kết hợp đồng đặt cọc để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên trong thời gian tài sản đang thế chấp tại ngân hàng. Trong vụ án nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên hợp đồng đặc cọc là vô hiệu và hủy hợp đồng này. Tuy nhiên, Tòa án cấp giám đốc thẩm đã nhận định hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập có hiệu lực, việc tài sản thế chấp tại ngân hàng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng đặt cọc.

Thứ hai, về chủ thể ký kết hợp đồng đặt cọc. Có quan điểm cho rằng việc ký kết hợp đồng đặt cọc phải do chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền chuyển nhượng tài sản ký kết để đảm bảo việc thực hiện giao kết hợp đồng chuyển nhượng. Trong trường hợp này, ông Đ không phải là chủ sở hữu tài sản, không phải là người có quyền chuyển nhượng tài sản nhưng được các con ủy quyền ký kết hợp đồng đặt cọc, ông Đ chưa được các con ủy quyền giao kết ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản. Bà N biết nhưng không phản đối. Trường hợp này, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cho rằng ông Đ đủ tư cách chủ thể để ký kết hợp đồng đặt cọc là đúng. Do đó, để áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự thì việc phát triển án lệ về vấn đề này là cần thiết.


[I] Dự thảo án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.

 

Nguồn Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn

Tìm hiểu bài này nếu bạn có ý định chuyển hướng sự nghiệp từ môi trường Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Tìm hiểu thêm:

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (phần 1)

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nếu là một luật sư đang tìm kiếm con đường thăng tiến trong sự nghiệp, hẳn bạn đã từng phân vân giữa môi trường làm việc tại Công ty luật (law firm) hay là tại vị trí Pháp chế doanh nghiệp (in-house). Sự phân vân quả thực là có cơ sở. Mỗi môi trường đều có những đặc thù riêng, yêu cầu khác nhau và mở ra những cơ hội phát triển khác biệt.

Bài viết phân tích sau đây sẽ giúp bạn có thêm góc nhìn của từng lựa chọn và chuẩn bị sẵn sàng cho một lộ trình sự nghiệp vững chắc và phù hợp với chính mình.

1. Sự khác biệt về môi trường làm việc

1.1 Văn hóa làm việc

Văn hóa làm việc là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự gắn bó và phát triển nghề nghiệp của một luật sư trong cả hai môi trường. Không chỉ là nhịp độ công việc, sự khác biệt còn nằm ở cách phối hợp nội bộ, cách trao đổi thông tin và cách ra quyết định.

Tại Công ty luật

Nếu bạn là người thích môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh, thích đối mặt với những thử thách pháp lý phức tạp, môi trường làm việc tại Công ty luật có thể là lựa chọn lý tưởng. Công ty luật hoạt động như một tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp, đề cao sự chính xác và cẩn trọng trong chuyên môn. Tại đây, bạn sẽ làm việc với nhiều khách hàng khác nhau trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và tiếp xúc, xử lý các vụ tranh chấp, tư vấn giao dịch, hoặc các vấn đề pháp lý quan trọng từ góc độ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng của mình.

Cạnh tranh trong Công ty luật rất khốc liệt và bạn sẽ phải cạnh tranh với các đồng nghiệp của mình. Tại 1 số công ty luật và tùy từng vị trí, càng lên cao, bạn càng được đánh giá qua số giờ làm việc có thể tính phí, khả năng thu hút khách hàng và hiệu suất công việc. Nhịp độ làm việc nhanh, khối lượng công việc lớn và không hiếm khi bạn phải ở lại văn phòng xử lý công việc để đáp ứng yêu cầu về tiến độ của khách hàng.

Pháp chế doanh nghiệp

Nếu bạn muốn tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp và đồng hành cùng một tổ chức lâu dài thì vai trò pháp chế có thể phù hợp hơn. Văn hóa trong bộ phận pháp chế doanh nói chung mang tính liên kết và hợp tác nội bộ nhiều hơn so với Công ty luật.

Tại đây, bạn tập trung vào việc hỗ trợ pháp lý cho công ty, khi đó khách hàng của bạn là các phòng ban nội bộ của công ty. Bạn không còn làm việc để phục vụ khách hàng bên ngoài mà là để hỗ trợ các phòng ban nội bộ đạt mục tiêu. Điều này yêu cầu bạn phải nắm bắt về về mô hình kinh doanh, quy trình, chính sách nội bộ, quan hệ giữa các phòng ban  và các vấn đề khác không chỉ đơn thuần là các điều luật.

Khác với khi làm việc tại Công ty luật, bạn không có áp lực billable hours nhưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo công ty luôn tuân thủ pháp luật và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Khi công ty gặp vấn đề pháp lý, áp lực lên bạn có thể rất lớn.

1.2. Áp lực công việc

Tại Công ty luật

Ngoài áp lực cạnh tranh với đồng nghiệp, bạn sẽ đối mặt với áp lực doanh số và deadline của khách hàng khi làm việc tại Công ty luật. Trong số mảng đặc thù như tư vấn M&A, tài chính, hoặc tranh tụng, khối lượng công việc có thể biến động mạnh, nhất là trong các giao dịch quan trọng của khách hàng hoặc các vụ tranh chấp lớn, đặc biệt là trong các giai đoạn cao điểm

Pháp chế doanh nghiệp

Công việc pháp chế trông có vẻ ổn định hơn nhưng vẫn đầy thách thức không kém. Bạn cần có khả năng cân bằng giữa tuân thủ pháp luật và đáp ứng nhu cầu kinh doanh, một nhiệm vụ không hề đơn giản. Một trong những thách thức lớn nhất của luật sư pháp chế là phải đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, chính sách nội bộ nhưng đồng thời không làm cản trở các hoạt động kinh doanh.

Ví dụ: Các phòng ban như kinh doanh, marketing, tài chính, mua hàng, vận hành có thể đưa ra các đề xuất, sáng kiến, dự án mới để thúc đẩy doanh thu hay chỉ đơn giản là thực hiện các công việc của các bộ phận này. Họ sẽ tìm đến bạn, một thành viên của bộ phận pháp chế doanh nghiệp, để được tư vấn sớm hoặc thậm chí là đã triển khai rồi mới tìm đến bạn.

Thông thường kỳ vọng của họ sẽ là bộ phận pháp chế phải phân tích khả thi, đánh giá rủi ro và tư vấn phương án tuân thủ nhưng không làm gián đoạn hoạt động họ muốn triển khai. Nếu nói "không" nhiều lần, rất có thể bạn sẽ bị nhìn nhận là người gây khó dễ hoặc thiếu tinh thần hỗ trợ. Nhưng nếu nói "có", bạn phải sẵn sàng chịu trách nhiệm cho lời tư vấn của mình, đặc biệt nếu sau đó phát sinh rủi ro và hậu quả pháp lý. Điều này yêu cầu bạn phải có nền tảng vững vàng về chuyên môn pháp lý, vừa có tư duy linh hoạt và khả năng giao tiếp tốt, vừa bảo vệ doanh nghiệp và vừa hỗ trợ hoạt động kinh doanh diễn ra suôn sẻ.

Ngoài ra, bộ phận pháp chế doanh nghiệp không thể vắng mặt khi phải xử lý tranh chấp hợp đồng, kiện tụng lao động, hay khi bị cơ quan chức năng thanh tra. Khi xảy ra mâu thuẫn nội bộ, chẳng hạn như xung đột giữa nhân viên và công ty, hay giữa các cổ đông, bạn cũng phải đóng vai trò trung gian để giải quyết vấn đề một cách hợp lý, tránh leo thang thành tranh chấp pháp lý. Trong các trường hợp này, bạn phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận liên quan, quản lý khủng hoảng, làm việc với cơ quan quản lý và tư vấn cho ban lãnh đạo về hướng giải quyết. 

1.3. Cách đưa ra ý kiến pháp lý: Chủ động hay hỗ trợ?

Tại Công ty luật

Trong Công ty luật, luật sư thường đưa ra ý kiến pháp lý độc lập. Các ý kiến này chủ yếu phục vụ khách hàng bên ngoài, được trình bày dưới dạng bản tư vấn pháp lý, email tư vấn hoặc lập luận trong hồ sơ tranh tụng. Dù đôi khi khách hàng có thể mong muốn một kết luận "có lợi", nhưng bạn vẫn được kỳ vọng duy trì lập trường trung lập, logic và tuân thủ các quy định pháp luật.

Một khi đã có kết quả công việc, ví dụ như bản tư vấn pháp lý, được gửi cho khách hàng, việc áp dụng như thế nào sẽ nằm sự cân nhắc và quyết định của khách hàng. Nếu khách hàng không có yêu cầu khác, ít khi luật sư phải tham gia vào quá trình thực thi hoặc vận hành các quyết định đó về sau.

Chính vì vậy, sự tách biệt giữa vai trò tư vấn và vận hành trong công ty luật giúp luật sư duy trì tính chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên, điều này cũng có thể khiến cho nội dung tư vấn trở nên thiếu thực tiễn nếu luật sư không hiểu sâu bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp hoặc ngành nghề mà khách hàng đang hoạt động.

Pháp chế doanh nghiệp

Ngược lại, luật sư pháp chế doanh nghiệp không chỉ đưa ra ý kiến pháp lý mà còn phải giải bài toán phù hợp với vận hành kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc bạn không chỉ dừng lại ở phân tích quy định pháp luật, mà còn phải cân nhắc đến các yếu tố tài chính, thương mại, nhân sự, quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp, con người. Bạn không chỉ chỉ ra rủi ro mà còn phải đề xuất phương án thay thế, linh hoạt và phù hợp với mục tiêu kinh doanh.

Trong nhiều trường hợp, bạn phải ra quyết định trong bối cảnh khi chưa có đầy đủ thông tin hoặc thông tin chưa rõ ràng. Điều này đòi hỏi sự tỉnh táo, khả năng cân nhắc rủi ro đa chiều, và bản lĩnh chịu trách nhiệm với lời tư vấn của mình.

Ví dụ, nếu phòng Sale -  Marketing muốn thực hiện một chiến dịch quảng cáo mới nhưng nội dung có khả năng vi phạm quy định cạnh tranh và quảng cáo, bạn không thể đơn thuần trả lời "không được làm". Thay vào đó, bạn cần đề xuất cách điều chỉnh nội dung để đảm bảo tuân thủ mà vẫn đạt được hiệu quả truyền thông mong muốn.

Một ví dụ khác điển hình thể hiện sự khác biệt trong cách tiếp cận xử lý công việc giữa luật sư trong hai môi trường. Nói đến giấy ủy quyền, luật sư nào cũng sẽ biết về sự ủy quyền khi doanh nghiệp muốn ủy quyền cho một cá nhân ký kết hợp đồng hoặc tham gia giao dịch với đối tác.

Trong khi luật sư tại công ty luật có xu hướng tập trung vào hình thức và tính hợp pháp của nội dung trên Giấy ủy quyền theo quy định pháp luật, luật sư pháp chế sẽ cần đánh giá sâu hơn: (1) phạm vi ủy quyền có phù hợp với quy trình nội bộ, cơ chế kiểm soát và phân quyền trong công ty hay không? (2) Việc ban hành giấy ủy quyền trong doanh nghiệp thường đi kèm với việc trình phê duyệt, kiểm tra điều kiện nội bộ và đảm bảo rằng người được ủy quyền thực sự có đủ thẩm quyền theo chính sách nội bộ đã ban hành.

Ngoài ra, bạn còn phải biết truyền đạt ý kiến pháp lý theo cách mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng, tạo ra sự kết nối hiệu quả giữa pháp chế và hoạt động vận hành thực tế của doanh nghiệp.

1.4. Cơ hội phát triển sự nghiệp: Đâu là con đường dài hạn của bạn?

Tại Công ty luật

Nếu bạn muốn thăng tiến nhanh và có thu nhập cao, Công ty luật có thể là lựa chọn hấp dẫn. Bạn có thể tham khảo các báo cáo về mức lương trên thị trường lao động do các công ty tuyển dụng phát hành hàng năm. Con đường sự nghiệp của bạn thường sẽ trải qua một số mốc chính (tên tiếng Anh thường gặp) như: từ Paralegal → Associate → Senior Associate → Partner. Để lên Partner, bạn cần không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có kỹ năng phát triển khách hàng, xây dựng thương hiệu cá nhân và đóng góp vào sự phát triển của công ty luật. Luật sư tại các công ty luật lớn còn có cơ hội trở thành Equity Partner – một vị trí vừa mang tính chuyên môn cao, vừa gắn liền với quyền lợi sở hữu và điều hành trong tổ chức.

Pháp chế doanh nghiệp

Trong môi trường pháp chế doanh nghiệp và tùy thuộc vào cơ cấu nhân sự tại đây, bạn có thể bắt đầu từ vị trí[1]: Chuyên viên pháp lý (Legal Executive hoặc Legal Officer), sau đó thăng tiến lên các vị trí quản lý như Trưởng phòng pháp lý (Legal Manager), Giám đốc pháp lý (Head of Legal), hoặc các vị trí có tên gọi khác nhau như là General Counsel hay là Vice President.

Tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp, vị trí luật sư pháp chế còn có thể mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực khác như Tuân thủ (Compliance), Quản trị rủi ro (Risk management), Quan hệ chính phủ (Governmental Affairs), Đối ngoại (Public Affairs).

Ở các cấp bậc cao, bạn không chỉ phụ trách pháp lý thuần túy mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định chiến lược, xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro tổng thể và thậm chí tham gia điều hành doanh nghiệp ở cấp cao. Đây là các vị trí đòi hỏi năng lực quản trị, khả năng phối hợp giao tiếp và tư duy chiến lược.

Điểm khác biệt then chốt chúng ta có thể nhìn thấy là luật sư công ty luật phát triển theo “chiều sâu chuyên môn và xây dựng danh tiếng nghề nghiệp”, còn luật sư pháp chế phát triển theo “chiều rộng quản trị và vai trò chiến lược trong tổ chức”.

2. Thách thức khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Việc chuyển từ môi trường làm việc từ công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp không chỉ là sự thay đổi về môi trường làm việc, mà còn là một sự chuyển đổi toàn diện về tư duy, vai trò và phương thức vận hành công việc. Dưới đây là những thách thức điển hình mà một luật sư có thể đối mặt khi thực hiện bước chuyển này:

2.1. Chuyển vai từ luật sư tư vấn sang cố vấn nội bộ

Trong công ty luật, luật sư thường làm việc theo yêu cầu cụ thể từ khách hàng và phản hồi mang tính độc lập. Trong khi đó, tại doanh nghiệp, bạn không chỉ đưa ra tư vấn mà còn phải chủ động phát hiện rủi ro, xây dựng quy trình phòng ngừa và đồng hành với hoạt động nội bộ. Sự thay đổi từ phản ứng sang chủ động này đòi hỏi tư duy chiến lược và hiểu sâu hệ thống vận hành.

2.2. Làm việc với nhiều phòng ban

Từ việc chủ yếu phối hợp với các đồng nghiệp cùng chuyên môn trong công ty luật, bạn sẽ chuyển sang môi trường phải làm việc với các bộ phận như tài chính, nhân sự, kinh doanh, vận hành… Mỗi bộ phận có cách làm việc, văn hóa và ưu tiên khác nhau, nên luật sư pháp chế cần có kỹ năng giao tiếp, thuyết phục và diễn giải luật pháp bằng ngôn ngữ dễ hiểu và phù hợp với từng đối tượng, từng đối tượng.

2.3. Làm việc độc lập và đa nhiệm

Nhiều doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ – chỉ có một vị trí pháp chế duy nhất. Bạn sẽ phải một mình đảm nhiệm mọi vấn đề pháp lý từ hợp đồng, lao động, tuân thủ, tranh chấp…, thậm chí phải vừa làm việc với cơ quan nhà nước, vừa hỗ trợ phòng ban nội bộ. Khi cần thuê công ty luật hỗ trợ, bạn vẫn là người chịu trách nhiệm chính và định hướng chiến lược xử lý.

2.4. Nếu phải báo cáo cho cấp trên không phải là luật sư

Khác với công ty luật, nơi bạn báo cáo cho người cùng chuyên môn, ở môi trường doanh nghiệp, vị trí của bạn có thể phải báo cáo cho Giám Đốc Tài Chính, Giám Đốc Nhân Sự hay CEO. Nếu không biết cách trình bày vấn đề theo góc nhìn rủi ro – hiệu quả – ảnh hưởng tài chính, bạn có thể không được đánh giá đúng năng lực hoặc thuyết phục được cấp trên về giải pháp đề xuất của bạn.

2.5 Hiểu và thích nghi với hệ thống nội bộ

Nếu có cơ hội làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia (MNC), bạn cần hiểu không chỉ pháp luật Việt Nam mà còn phải tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, chính sách tập đoàn trên toàn cầu và khu vực, và cơ chế kiểm soát tuân thủ chặt chẽ. Việc tương tác với các cố vấn pháp lý toàn cầu, báo cáo theo chuẩn mực quốc tế hoặc tham gia hệ thống đào tạo tuân thủ toàn cầu cũng là một thử thách lớn nếu bạn chưa quen với môi trường này.

3. Bí quyết thích nghi khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường Pháp chế doanh nghiệp

3.1. Chuyển đổi tư duy

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc giải quyết tranh chấp hoặc xử lý các giao dịch quan trọng. Nhưng khi làm việc trong môi pháp chế, nhiệm vụ của bạn không chỉ là xử lý vấn đề với tâm lý "nên ngăn chặn ngay từ đầu". Thay vào đó, bạn cần có cái nhìn dài hạn, giúp công ty hoạt động tuân thủ mà vẫn đạt được mục tiêu.

Ví dụ điển hình là khi công ty phát triển sản phẩm hoặc dịch vụ mới, thay vì chỉ soát xét hợp đồng đẻ bán hàng và cung cấp dịch vụ, luật sư pháp chế cần đánh giá tổng thể toàn bộ quy trình triển khai: từ quyền sở hữu trí tuệ, điều kiện cấp phép, nội dung quảng cáo, đến cơ chế bảo vệ dữ liệu khách hàng. Bạn là người gác cổng sớm nhất để đảm bảo mọi hoạt động phù hợp với pháp luật và đạt mục tiêu kinh doanh.

3.2. Tư duy linh hoạt – không chỉ nói “Không”

Điều này nói thì dễ nhưng làm sẽ khó. Để cho an toàn, chúng ta có xu hướng tư duy "phân tích rủi ro" quá mức khiến trở thành người luôn nói "không". Trong thực tế, vai trò của luật sư pháp chế được kỳ vọng là đưa ra giải pháp hợp pháp, khả thi và hỗ trợ đạt được mục tiêu. Nếu phải nói "không", bạn cũng cần biết cách nói "không" một cách tinh tế và mang tính xây dựng.

Ví dụ, nếu nhận thấy chương trình khuyến mại của công ty thực hiện sẽ có rủi ro vi phạm pháp luật, thay vì phản ứng ngay bằng lời từ chối cứng nhắc, bạn có thể bắt đầu bằng việc ghi nhận mục tiêu của họ, phân tích rủi ro và sau đó đề xuất phương án điều chỉnh để phù hợp với luật – chẳng hạn như thay đổi hình thức khuyến mại, sửa thể lệ cho phù hợp, hoặc chia nhỏ giai đoạn triển khai.

Điều này không chỉ giúp bạn giữ được vai trò tư vấn tích cực, mà còn tạo được thiện chí và sự tin tưởng từ các phòng ban.

3.3. Phát triển kỹ năng giao tiếp - kỹ năng không thể thiếu nếu muốn được thăng tiến

Trong số các luật sư chúng tôi thường gặp – dù làm việc tại công ty luật hay tại bộ phận pháp chế – họ là người hướng nội (introvert). Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi công việc pháp lý vốn đòi hỏi sự tập trung cao độ và tư duy phân tích chuyên sâu.

Tuy nhiên, khi làm pháp chế doanh nghiệp, bạn sẽ là người trực tiếp hỗ trợ các phòng ban nội bộ – là những người không có nền tảng pháp lý. Do đó, bạn cần học cách trình bày rõ ràng, súc tích, đơn giản hóa vấn đề pháp lý theo ngôn ngữ mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng.

Kỹ năng giao tiếp – trình bày – thương lượng với các phòng ban và đặc biệt là với các cấp quản lý như trưởng phòng, giám đốc, ban điều hành – sẽ quyết định bạn có tạo được ảnh hưởng chiến lược hay không. Đây là yếu tố phân biệt giữa một luật sư thuần kỹ thuật và một cố vấn nội bộ đáng tin cậy.

Càng ở vị trí cao, bạn càng phải giao tiếp thường xuyên với lãnh đạo cấp cao, nơi mọi thông điệp cần được trình bày ngắn gọn, có trọng tâm và tập trung vào tác động kinh doanh thay vì thuật ngữ pháp lý chuyên sâu. Tuy nhiên, khi đang còn ở các vị trí thấp hơn, chúng ta cũng cần nhận thức rõ và không ngừng trau dồi để có nhiều cơ hội thăng tiến sau này.

Hãy xem kỹ năng giao tiếp không chỉ là một kỹ năng mềm, mà là năng lực giúp bạn chuyển hóa kiến thức pháp lý và xây dựng vị trí vững chắc trong môi trường pháp chế doanh nghiệp. Đây là kỹ năng không thể thiếu nếu bạn muốn tiến xa trong sự nghiệp.

3.4. Thích nghi với quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc làm theo từng vụ việc, nhưng trong doanh nghiệp, bạn cần hiểu rõ hệ thống quy trình nội bộ, từ phê duyệt hợp đồng, kiểm soát tuân thủ, đến quản lý rủi ro. Bạn cần nắm rõ các quy trình phê duyệt trong doanh nghiệp: ai được ký hợp đồng, khi nào cần ủy quyền, quy trình xét duyệt ngân sách… Việc hiểu cách doanh nghiệp vận hành giúp bạn đưa ra tư vấn có tính thực tế cao hơn và khả thi hơn khi triển khai thay vì chỉ áp dụng các điều khoản một cách máy móc.

Với ví dụ về giấy ủy quyền nêu trên, bạn không chỉ đánh giá hình thức pháp lý mà còn phải xem người được ủy quyền có đúng cấp, đúng quy trình phê duyệt nội bộ chưa, và có rủi ro xung đột hay không.

Một trong những điểm khác biệt lớn giữa Công ty luật và pháp chế doanh nghiệp là cách thức đưa ra quyết định. Trong Công ty luật, bạn có thể có quyền đưa ra ý kiến tư vấn độc lập đối với một vụ việc cụ thể. Nhưng trong doanh nghiệp, quyết định cuối cùng để hành động sẽ do người có thẩm quyền hoặc theo cơ chế phân yêu quyền để đưa ra quyết định. Điều này đòi hỏi bạn phải có khả năng thương lượng, đề xuất phương án khả thi thay vì chỉ đưa ra ý kiến pháp lý đơn thuần.

Các công ty MNC và FDI thường có các chỉ số KPI liên quan đến pháp chế, chẳng hạn như mức độ tuân thủ, thời gian xử lý hợp đồng, hoặc hiệu suất giải quyết tranh chấp. Luật sư pháp chế cần chủ động tìm hiểu những chỉ số này để đưa ra tư vấn sát với nhu cầu kinh doanh.

4. Kết luận

Việc chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường pháp chế doanh nghiệp mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm với không ít thách thức.

Để thành công, bạn cần chuẩn bị về tư duy, khả năng giao tiếp tốt, hiểu biết sâu về hoạt động kinh doanh và khả năng làm việc trong một hệ thống phức tạp. Khi bạn có thể kết hợp tốt giữa kiến thức pháp lý và tư duy kinh doanh, bạn không chỉ là một luật sư giỏi mà còn là một cố vấn chiến lược thực sự cho doanh nghiệp.

Nếu bạn đang cân nhắc chuyển từ Công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp, hãy tự hỏi mình: Bạn có sẵn sàng thay đổi tư duy từ xử lý tranh chấp sang phòng ngừa rủi ro? Bạn có thể làm việc độc lập mà không có sự hỗ trợ của một đội ngũ luật sư? Bạn có đủ kiên nhẫn để giải thích các vấn đề pháp lý theo cách mà lãnh đạo không chuyên về luật có thể hiểu và đưa ra quyết định?

Nếu bạn muốn có một sự chuyển đổi suôn sẻ, hãy bắt đầu bằng việc trau dồi kỹ năng quản trị rủi ro, thương lượng, giao tiếp với lãnh đạo cấp cao và luôn học hỏi không ngừng để hiểu hơn mô hình kinh doanh và các khía cạnh liên quan, kể cả khi không phải là vấn đề pháp lý. Hãy thử kết nối với những người đã đi trước trong lĩnh vực pháp chế, tham gia vào các hội thảo, nhóm về pháp chế doanh nghiệp và không ngừng học hỏi.

Chúc bạn thành công.


[1] Tên gọi các vị trí, phòng ban có thể khác nhau tùy từng công ty

[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu

Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.

Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.

1. Cơ sở pháp lý của chính sách

Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:

  • Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
  • Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
  • Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
  • Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
  • Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
  • Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.

2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau

(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:

  • UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
  • Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
  • Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.

(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:

  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
  • Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.

(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:

  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
  • Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.

3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.

Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:

- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.

- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.

Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.

5. Lộ trình thực hiện

Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.

Cập nhật: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội

Bộ Xây dựng đang chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội (NƠXH) nhằm tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy nguồn cung nhà ở cho người thu nhập thấp. Nghị quyết này được xây dựng với sự phối hợp của các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, tập trung vào các chính sách ưu đãi về tài chính, đất đai, thủ tục đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nhà ở xã hội.

Dự thảo này đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng về cơ chế giao chủ đầu tư, nguồn vốn phát triển NƠXH, ưu đãi tài chính và thủ tục đầu tư xây dựng.

1. Mục tiêu hướng đến của của nghị quyết:

  • Đẩy nhanh tiến độ xây dựng NƠXH bằng cách đơn giản hóa thủ tục đầu tư.
  • Tạo cơ chế linh hoạt hơn cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
  • Mở rộng nguồn vốn phát triển NƠXH, bao gồm Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Tăng cường hỗ trợ người dân có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở xã hội.

2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

2.1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị quyết này thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển nhà ở xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, không áp dụng đối với dự án NƠXH sử dụng vốn đầu tư công​.

Các nội dung thí điểm bao gồm:

  • Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Giao chủ đầu tư không qua đấu thầu.
  • Cơ chế hỗ trợ giải phóng mặt bằng và hạ tầng kỹ thuật.
  • Quy định lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư.

2.2. Đối tượng áp dụng

Dự thảo Nghị quyết áp dụng đối với:

  • Cơ quan nhà nước liên quan đến phát triển và quản lý NƠXH.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (triển khai nhà ở cho công nhân).
  • Doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đầu tư xây dựng NƠXH.
  • Người dân thuộc diện được hưởng chính sách NƠXH​.

3. Những cơ chế, chính sách đặc thù trong Dự thảo Nghị quyết

3.1. Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia

Dự thảo đề xuất thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia, là quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Quỹ này có chức năng​:

  • Hỗ trợ lãi suất cho vay không yêu cầu thế chấp đối với người dân.
  • Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xây dựng NƠXH bằng hình thức tín dụng ưu đãi.
  • Quản lý quỹ nhà ở xã hội trên cả nước.

3.2. Giao chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không qua đấu thầu

Theo Dự thảo, các cơ quan sau được quyền giao chủ đầu tư dự án NƠXH mà không cần đấu thầu​:

  • Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH trên địa bàn.
  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH dành cho lực lượng vũ trang.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao chủ đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân bằng nguồn tài chính công đoàn.

Điều này giúp đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, tránh tình trạng kéo dài do thủ tục đấu thầu phức tạp.

3.3. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng và phát triển hạ tầng

Dự thảo quy định sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để​:

  • Hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các dự án NƠXH.
  • Đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đi kèm với NƠXH.

Chính sách này giúp giảm chi phí ban đầu cho chủ đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển NƠXH.

3.4. Quy định về lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư

Dự thảo đưa ra quy định lợi nhuận định mức tối đa mà chủ đầu tư được hưởng đối với phần diện tích xây dựng NƠXH là 13% tổng chi phí đầu tư xây dựng​.

Việc giới hạn lợi nhuận giúp kiểm soát giá thành nhà ở xã hội, đảm bảo mức giá phù hợp cho người thu nhập thấp.

4. Tác động dự kiến của Dự thảo Nghị quyết

4.1. Đối với chủ đầu tư

Dự thảo Nghị quyết mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Một trong những điểm đáng chú ý là chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, giúp chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp hơn so với thị trường. Điều này góp phần giảm gánh nặng tài chính và thúc đẩy việc triển khai các dự án nhanh chóng hơn.

Bên cạnh đó, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu giúp rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư, tránh tình trạng chậm trễ do các thủ tục hành chính kéo dài. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp sớm triển khai dự án, đáp ứng nhu cầu nhà ở xã hội ngày càng cao.

Ngoài ra, chủ đầu tư còn được hỗ trợ giải phóng mặt bằng và đầu tư hạ tầng kỹ thuật, góp phần giảm chi phí ban đầu và tăng hiệu quả kinh doanh. Chính sách này giúp doanh nghiệp giảm áp lực về tài chính và đảm bảo tiến độ thi công các dự án nhà ở xã hội theo kế hoạch.

4.2. Đối với người dân

Dự thảo Nghị quyết cũng mang lại nhiều tác động tích cực đối với người dân, đặc biệt là các nhóm đối tượng có thu nhập thấp. Nhờ các chính sách kiểm soát giá thành và ưu đãi cho chủ đầu tư, giá bán và giá thuê nhà ở xã hội được điều chỉnh ở mức hợp lý hơn, giúp nhiều người có cơ hội sở hữu hoặc thuê nhà với chi phí phù hợp với khả năng tài chính.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp giúp người mua nhà giảm gánh nặng tài chính. Nhờ thời gian vay kéo dài, người thu nhập thấp có thể tiếp cận nhà ở dễ dàng hơn mà không phải lo lắng về áp lực trả nợ trong thời gian ngắn.

Ngoài việc hỗ trợ tài chính, Dự thảo còn tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhà ở xã hội. Điều này không chỉ giúp mở rộng nguồn cung mà còn mang đến nhiều lựa chọn hơn cho người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định thị trường nhà ở xã hội trong thời gian tới.

5. Kết luận

Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế thí điểm phát triển nhà ở xã hội mang lại nhiều thay đổi quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án NƠXH, hỗ trợ tài chính cho chủ đầu tư và giúp người dân tiếp cận nhà ở với chi phí hợp lý hơn.

Với các cơ chế như thành lập Quỹ phát triển NƠXH, giao chủ đầu tư không qua đấu thầu, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiểm soát lợi nhuận, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp thị trường NƠXH phát triển mạnh mẽ hơn​ trong thời gian tới.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn

Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!

Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.

Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?

Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Luật yêu cầu:

  • Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
  • Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
  • Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.

Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”

Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.

Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.

Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu

Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:

  • Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
  • Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
  • Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.

Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.

Tại sao cần quan tâm?

Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.

Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)